Ánh sáng phương Bắc (Tập 1) - Phần II - Chương 10 - Phần 2

Vì thế cô nói:

“Thực ra thì cháu có thể đọc được,” nửa nói với tiến sĩ Lanselius, nửa với Farder Coram.

Và ông Lãnh sự trả lời. “Cháu thật là thông minh,” ông nói. “Từ đâu mà cháu có được nó vậy?”

“Ông Hiệu trưởng Học viện Jordan tại Oxford đưa cho cháu,” cô nói. “Tiến sĩ Lanselius, ông có biết ai đã làm ra chúng không?”

“Người ta đồn rằng nó có nguồn gốc từ thành phố Prague,” ông Lãnh sự nói. “Người học giả phát minh ra La bàn vàng đầu tiên lúc đó đã cố tìm ra một cách để đo mức độ ảnh hưởng của các hành tinh, theo các khái niệm của ngành chiêm tinh học. Ông ta định làm ra một thiết bị có thể vận động phản ứng lại các lực hút của Sao Hỏa và Sao Kim như một chiếc la bàn phản ứng lại các lực hút của phương Bắc. Về mặt này ông ta đã thất bại, nhưng bộ máy ông phát minh ra rõ ràng đã phản ứng lại với một vài thứ, dù thậm chí không ai biết đó là thứ gì.”

“Họ lấy các biểu tượng ở đâu ạ?”

“À, đó là vào thế kỷ thứ mười bảy. Biểu tượng và ký hiệu có ở khắp mọi nơi. Các tòa nhà và bức tranh được thiết kế để có đọc được như các cuốn sách. Tất cả mọi thứ đều có thể thay mặt được một thứ gì đó khác. Nếu cháu có được đúng cuốn từ điển cần thiết, cháu có thể đọc được chính cả Tự nhiên. Bởi thế không có gì là đáng ngạc nhiên khi một nhà khoa học sử dụng hệ thống ký hiệu đương thời để diễn đạt những kiến thức có nguồn gốc bí ẩn. Nhưng, cháu biết đấy, chúng đã không hề được sử dụng trong vòng hai thế kỷ hay hơn nữa. “

Ông đưa trả chiếc máy cho Lyra và nói thêm:

“Ta có thể hỏi một câu hỏi được không? Không có cuốn sách giải thích các biểu tượng, cháu làm thế nào mà đọc được?”

“Cháu chỉ làm cho tư tưởng của mình thật rõ ràng sau đó là một kiểu giống như nhìn sâu xuống mặt nước. Bác phải để cho mắt mình tìm đúng tầm mức, vì đó là cái duy nhất cần tập trung. Kiểu kiểu vậy.” cô nói.

“Ta tự hỏi không biết có thể đề nghị cháu làm thử được không?” Ông hỏi.

Lyra nhìn sang Farder Coram. Cô muốn trả lời có nhưng vẫn chờ được ông cho phép. Ông già gật đầu.

“Cháu sẽ hỏi nó vấ đề gì ạ?” Lyra hỏi.

“Người Tartar có ý định gì về vấn đề Kamchatka?”

Câu hỏi không khó. Lyra quay chiếc kim vào con lạc đà, có nghĩa là châu Á, cũng có nghĩa là quân Tartar; vào chiếc sừng dê kết hoa, tượng trưng cho Kamchatka, nơi có rất nhiều mỏ vàng; rồi vào con kiến, có nghĩa là hoạt động, mục đích hay dự định. Rồi cô ngồi yên, tập trung tư tưởng để ghép nối ba mức độ ý nghĩa lại, rồi thư giãn để tìm câu trả lời. Chiếc kim dài rung rinh dịch đến con cá voi, chiếc mũ sắt, đứa trẻ và chiếc mỏ neo, nhảy nhót giữa các biểu tượng đó và về phía nồi nấu kim loại theo một hành trình phức tạp khiến Lyra phải dõi theo không chớp mắt, nhưng lại vô cùng khó hiểu với hai người đàn ông.

Sau khi nó đã hoàn thành việc dịch chuyển nhiều lần, Lyra nhìn lại. Cô chớp mắt một hai lần như thể vừa ra khỏi một đường hầm.

“Họ đang dự định tấn công nơi đó, nhưng chưa thực sự bắt đầu, vì quãng đường xa và họ đã quá mệt mỏi,” cô nói.

“Cháu nói cho ta biết làm thế nào cháu đọc ra được không?”

“Con cá voi, một trong những ý nghĩa tiếp theo của nó là chơi, một dạng vui chơi.” Cô giải thích. “Cháu biết là nó nói đến ý nghĩa đó vì nó dừng lại tại đó sau khi đã quay từng ấy số vòng và cháu nhận thức được ở mức độ đó chứ không phải bất cứ ý nghĩa nào khác. Chiếc mũ sắt có nghĩa là chiến tranh, hai cái đi cùng nhau có nghĩa là họ định gây chiến nhưng không gấp lắm. Đứa bé có nghĩa là… nó nghĩa là khó khăn… quá khó cho họ để có thể tấn công nơi đó, còn chiếc mỏ neo cho biết tại sao, vì họ đã kiệt sức vì đã phải căng mình như một sợi dây treo. Cháu nhìn thấy tất cả nhưvậy.”

Tiến sĩ Lanselius gật đầu.

“Thật xuất sắc,” ông nói “ Ta rất cảm ơn cháu, ta sẽ không quên được điều này đâu.”

Rồi ông nhìn Farder Coram với ánh mắt kỳ lạ, rồi quay lại nhìn Lyra.

“Ta có thể hỏi thêm một câu nữa không?” ông nói. “Trong khoảng sân phía sau căn nhà này có rất nhiều cành thông mây treo trên tường. Serafina Pekkala đã dùng một trong số đó, số còn lại thì không. Cháu có thể cho ta biết là cành nào được không?”

“Được chứ ạ!” Lyra nói. Cô luôn muốn thể hiện mình. Thế là cô cầm lấy La bàn vàng và hối hả chạy ra. Cô nóng lòng muốn nhìn thấy cành thông mây, vì các phù thủy cưỡi chúng để bay, và cô chưa từng nhìn thấy chúng trước đây.

Khi cô đã đi khỏi, ông Lãnh sự nói. “Ông có nhận ra đứa bé này là ai không?”

“Nó là con gái của Ngài Asriel,” Farder Coram nói, “mẹ của nó là bà Coulter, người sáng lập Ủy ban Tôn giáo.”

“Ngoài những điều đó ra thì sao?”

Người đàn ông Gypsy già lắc đầu. “Không,” ông nói, “tôi không biết thêm gì nữa cả. Nhưng nó là một sinh linh vô tội lạ lùng, tôi sẽ không để nó gặp nguy hiểm trên thế giới này. Tôi không thể đoán được tại sao nó có được chiếc máy đó, nhưng tôi tin những gì nó nói. Sao ông lại hỏi tôi như vậy, Tiến sĩ Lanselius? Ông biết điều gì về cô bé sao?”

“Các phù thủy đã nói về đứa bé này nhiều năm nay,” ông Lãnh sự nói. “Bởi vì họ sống gần nơi mà bức màn ranh giới giữa các thế giới là rất mỏng, họ nghe được những lời thì thầm bất tử từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua tiế của những người đã vượt qua được ranh giới giữa các thế giới. Họ đã nói về một đứa bé như thế này, nó có một số mệnh phi thường chỉ có thể được thực hiện ở một nơi nào đó, không phải trong thế giới này, mà xa xôi hơn rất nhiều. Không có đứa bé này, tất cả chúng ta sẽ chết. Các phù thủy đã nói như vậy. Nhưng nó phải làm tròn số mệnh trong tình trạng không hề biết mình đang làm gì, vì chỉ khi nó không biết như vậy, chúng ta mới được an toàn. Ông có hiểu điều đó không, Farder Coram?”

“Không,” Farder Coram nói, “tôi không thể nói là tôi hiểu được.”

“Điều đó có nghĩa là nó không được mắc sai lầm. Chúng ta phải hy vọng nó sẽ không sai lầm, nhưng lại không thể dẫn dắt cho nó. Tôi mừng là có thể nhìn thấy đứa bé này trước khi chết.”

“Nhưng làm thế nào nhận ra cô bé là đứa trẻ đặc biệt đó chứ? Và ý ông là gì khi nói về những người đã vượt qua ranh giới giữa các thế giới? Tôi cảm thấy mơ hồ về những gì ông nói, thưa Tiến sĩLanselius, vì tôi luôn đánh giá ông là một người trung thực…”

Nhưng trước khi ông Lãnh sự kịp trả lời, cánh cửa bật mở và Lyra đi vào với vẻ hân hoan đắc thắng, tay cầm một nhánh thông mây nhỏ.

“Chính là cành này!” Cô nói. “Cháu đã thử tất cả chúng, và chính là cành này, cháu chắc chắn đấy.”

Ông lãnh sự nhìn kỹ rồi gật đầu.

“Chính xác,” ông nói. “Chà, Lyra, thật là đáng khen. Cháu thật may mắn vì có một chiếc máy như thế này, ta mong rằng cháu sẽ luôn may mắn với nó. Ta muốn cho cháu một thứ để mang theo bên mình đây…”

Ông cầm cành cây lên và bẻ một nhánh nhỏ đưa cho cô.

“Có phải bà ấy đã dùng nó để bay không?” Lyra hỏi, có đôi chút sợ hãi.

“Đúng, bà ấy đã dùng nó để bay. Ta không thể cho cháu cả cành cây được, ta cần nó để liên lạc với bà ấy, nhưng thế này cũng là đủ rồi. Cháu hãy giữ gìn cẩn thận.”

“Vâng, cháu sẽ làm như vậy,” cô nói, “cảm ơn ông.”

Cô đặt nó vào chiếc túi bên cạnh La bàn vàng. Farder Coram chạm vào cành thông mây như để lấy may, và trên mặt ông có một vẻ Lyra chưa từng thấy trước đây: vẻ mặt đó gần như sự mong mỏi. Ông Lãnh sự đưa họ ra cửa, bắt tay Farder Coram và bắt tay cả Lyra nữa.

“Tôi hy vọng mọi người sẽ thành công,” ông nói và đứng trước ngưỡng cửa trong thời tiết lạnh giá để nhìn theo họ đi xa dần trong con đường nhỏ.

“Ông ấy biết câu trả lời về người Tartar trước cháu,” Lyra nói với Farder Coram. “La bàn vàng nói với cháu như vậy, nhưng cháu không nói ra thôi. Đó quả là một thử thách ghê gớm.”

“Ta cho rằng ông ấy đang thử cháu, cô bé ạ. Nhưng cháu đã đúng khi tỏ ra lịch sự, giả như chúng ta không chắc ông ấy đã biết trước điều gì. Việc mách nước về con gấu cũng rất bổ ích. Ta không biết nếu không gặp ông ấy chúng ta sẽ nghe được về nó từ ai nữa.”

Họ tự tìm đường đến kho chứa xe kéo. Đó là hai nhà kho bằng bê tông giữa một vùng đất nhiều bụi rậm mọc đầy cỏ giữa những khe đá màu xám và những vũng bùn lạnh giá. Một người đàn ông cáu kỉnh trong văn phòng nói cho họ biết họ có thể tìm con gấu khi nó hết giờ làm vào lúc sáu giờ, nhưng họ phải nhanh lên, vì nó luôn đến thẳng chiếc sân phía sau quán rượu Einarsson, nơi người ta cho nó uống.

Sau đó Farder Coram đưa Lyra đến chỗ người bán quần áo tốt nhất trong thành phố và mua cho cô ít quần áo ấm phù hợp. Họ mua một chiếc áo có mũ trùm đầu làm bằng da tuần lộc, vì lông tuần lộc cắm ẩn trong da và cách nhiệt tốt, còn chiếc mũ được may viền bằng lông chồn gulo, vì nó ngăn những lớp băng người ta tạo ra khi hít thở. Họ mua quần áo lót và vải lót ủng bằng da tuần lộc nhỏ, găng tay lụa đi bên trong găng tay bằng lông to. Ủng và bao tay làm bằng da chân trước của tuần lộc, vì da ở đó đặc biệt dai. Để ủng được làm bằng da hải cẩu có ngạnh dai như da con mooc, nhưng lại nhẹ hơn. Cuối cùng họ mua một chiếc áo choàng không tay không thấm nước có thể bao trọn cả người cô, làm bằng ruột hải cẩu.

Với tất cả những thứ đó trên người, thêm một chiếăn lụa quàng quanh cổ, một chiếc mũ len trùm qua tai và một chiếc mũ chụp lớn phía trước mặt, cô cảm thấy ấm áp một cách vướng víu, nhưng họ đang sắp đến những vùng đất lạnh lẽo hơn thế này nhiều.

John Faa đang trong nom việc dỡ hàng khỏi tàu, rất thích thú trước tin tức từ Lãnh sự của các phù thủy. Và còn thích thú hơn khi nghe về con gấu.

“Chúng ta sẽ đến tìm nó ngay tối hôm nay,” ông nói.

“Ông đã bao giờ nói chuyện với một sinh vật như vậy chưa, Farder Coram?”

“Có, tôi từng nói chuyện rồi, và còn đánh nhau với một con, dù không phải là một mình, ơn Chúa. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn tinh thần để đương đầu với nó, John. Nó sẽ đòi hỏi nhiều đấy, tôi không nghi ngờ gì về chuyện ấy, sẽ cáu kỉnh và khó chịu, nhưng chúng ta nhất định phải có được nó.”

“Chà, chúng ta phải vậy thôi. Còn về bà phù thủy của ông thì sao?”

“À, chắc chắn bà ấy ở cách xa đây lắm, giờ là nữ hoàng của một bộ tộc phù thủy,” Farder Coram nói. “Tôi thực sự hy vọng có thể gửi một thông điệp đến chỗ bà ấy, nhưng sẽ là quá lâu để đợi trả lời.”

“À, thế hả. Giờ thì để tôi kể cho ông tôi đã tìm được gì, ông bạn già.”

John Faa đã quá nóng lòng sốt ruột muốn kể cho họ biết vài chuyện. Ông đã gặp một người lái khinh khí cầu, một người Tân Đan Mạch tên là Lee Scoresby, đến từ Texas, người đàn ông này có một khinh khí cầu, điều quan trọng là như vậy. Cuộc thám hiểm ông ta đang mong đợi đã thất bại do thiếu tiền ngay trước khi nó rời Amsterdam.

“Hãy nghĩ xem chúng ta có thể làm gì di sự giúp đỡ của một người lái khinh khí cầu, Farder Coram!” John Faa nói, xoắn hai bàn tay khổng lồ vào nhau. “Tôi đã mời ông ấy tham gia cùng chúng ta. Với tôi, dường như thần may mắn sắp tới đây gõ cửa rồi.”

“Nhưng còn may mắn hơn nếu chúng ta biết rõ chúng ta sẽ đi đâu,” Farder Coram nói, nhưng không gì có thể dập tắt sự hào hứng sắp được vào chiếc dịch một lần nữa của John Faa.

Trước khi mêm buông xuống, khi hàng hóa và các dụng cụ đã được gỡ xuống an toàn, nằm chờđợi trên bến cảng, Farder Coram dắt Lyra đi dọc khu cảng va tìm kiếm quán rượu Einarsson. Họ dễ dàng tìm thấy nó: một túp lều tồi tàn với ánh đèn huỳnh quang đỏ chiếu chập chờn trên cửa vànhững tiếng ồn ào phát ra qua những ô cửa sổ đầy sương đêm.

Một lối đi gập ghề bên cạnh dẫn đến một cánh cổng đi vào sân sau, nơi đó có một túp lều xiêu vẹo nằm ọp ẹp trên sàn đầy bùn đông đặc. Ánh đèn tù mù qua ô cửa sổ quán rượu chiếu sáng một bóng dáng lờ mờ đang nằm ngửa và gặm một chiếc đùi bê bằng cả hai tay. Lyra thấy một chiếc mõm và khuôn mặt nhuốm máu, đôi mắt đen độc ác và bộ lông vàng vàng bẩn thỉu bết lại. Khi nó ăn món thịt, tiếng gầm gừ, nhai ngấu nghiến và mút mát ghê rợn vang lên. Farder Coram đứng ngoài cửa và gọi.

“Iorek Byrnison!”

Con gấu ngừng nhai. Tại khoảng cách đó, nó nhìn họ chằm chằm, nhưng không thể đọc được nét biểu cảm nào trên mặt nó.

“Iorek Byrnison,” Farder Coram lại nói, “tôi có thể nói chuyện với anh được không?”

Tim Lyra đập mạnh, vì điều gì đó ở con gấu khiến cô có cảm giác giống với sự lạnh lẽo, nguy hiểm, sức mạnh tàn bạo, nhưng là một thứ sức mạnh điều khiển với trí thông minh, không phải trí thông minh của loài người, không có chút gì mang hơi hướng con người ở đây, vì tất nhiên loài gấu không có nhân tinh. Khối to lớn kỳ lạ đang gặm thịt này không giống bất cứ thứ gì cô từng tưởng tượng, cô cảm thấy một sự khâm phục và đáng thương sâu sắc cho con vật cô đơn này.

Nó đánh rơi chiếc đùi tuần lộc xuống đất bẩn và bò bằng cả bốn chân ra cửa. Rồi nó đứng lên một cách hùng dũng, cao đến ba mét hoặc hơn nữa, như thể để thể hiện sức mạnh của mình, để nhắc nhở họ cánh cửa không có tác dụng che chắn gì cả, và nó nói chuyện với họ ở độ cao đó.

“Sao? Các người là ai?”

Giọng nó trầm đến mức như thể làm rung chuyển cả mặt đất. Mùi hôi khét lẹt bốc ra từ cơ thể nó làm người khác gần như bị tê liệt.

“Tôi là Farder Coram, đại diện cho người Gypsy ở Đông Anglia. Còn cô bé này là Lyra Belacqua.”

“Các ngươi muốn gì?”

“Chúng tôi muốn thuê anh làm việc, Iorek Byrnison.”

“Tôi đã có việc rồi.”

Con gấu lại đứng bằng bốn chân. Rất khó để phát hiện được bất cứ sắc thái tình cảm nào trong giọng nói của nó, dù là lạnh lùng hay giận dữ, vì nó quá trầm và đều đều.

“Anh làm gì tại nhà kho xe kéo vậy?” Farder Coram hỏi.

“Tôi sửa chữa máy móc và các bộ phận bằng sắt bị hỏng. Tôi nâng những vật nặng.”

“Đó là loại công việc gì dành cho Panserbjorne vậy?”

“Việc được trả công.”

Phía sau con gấu, cánh cửa quán rượu hé mở, một người đàn ông đặt chiếc bình đất nung lớn xuống trước khi ngẩng lên và nhìn họ chằm chằm.

“Ai vậy?”

“Người lạ,” con gấu nói.

Dường như người chủ quán muốn hỏi điều gì nữa, nhưng con gấu bất ngờ đảo người về phía ông ta và người đàn ông vội vã đóng sầm cửa lại. Con gấu cầm lấy quai bình và nhấc nó lên miệng. Lyra có thể ngửi thấy mùi rượu bay ra.

Sau khi đã nốc rượu nhiều lần, con gấu đặt chiếc bình xuống và quay lại gặm chiếc đùi tuần lộc, dường như không để ý gì đến sự có mặt của Farder Coram và Lyra, nhưng rồi nó lại lên tiếng.

“Các ông đề nghị tôi làm việc gì?”

“Chiến đấu, bằng toàn bộ sức lực,” Farder Coram trả lời. “Chúng tôi đang đi lên phương Bắc cho đến khi tìm được nơi người ta giam giữ một số đứa trẻ. Khi tìm được, chúng tôi sẽ phải chiến đấu để giải thoát cho bọn trẻ, sau đó chúng tôi sẽ đưa chúng trở về.”

“Các ông sẽ trả công cho tôi bằng gì?”

“Tôi không biết nên trả cho anh cái gì, Iorek Byrnison. Nếu vàng là thứ anh muốn, anh sẽ có vàng.”

“Chẳ có tác dụng gì đâu.”

“Thế tại nhà kho xe kéo người ta trả cho anh bằng gì?”

“Ở đây tôi nuôi sống mình bằng rượu và thịt.”

Rồi con gấu im lặng. Nó thả cục xương gặm nham nhở xuống và nhấc bình rượu lên ngang miệng, uống ừng ực thứ rượu mạnh như uống nước lã.

“Xin thứ lỗi cho câu hỏi của tôi, Iorek Byrnison.” Farder Coram nói. “Nhưng anh có thể sống một cuộc đời tự do hùng dũng săn hải cẩu và mooc trên băng tuyết, hay anh có thể tham gia chiến tranh với những phần thưởng lớn. Cái gì đã buộc anh lại Trollesund và Quán rượu Einarsson vậy?”

Lyra cảm thấy toàn thân mình run rẩy. Cô cũng đã nghĩ đến câu hỏi tương tự, một câu hỏi gần như là xúc phạm, có thể khiến sinh vật khổng lồ này nổi điên, và cô ngạc nhiên trước sự dũng cảma Farder Coram khi hỏi như vậy. Iorek Byrnison đặt bình rượu xuống, đến gần cánh cổng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt ông già. Farder Coram không hề nao núng.

“Tôi biết người các ông đang tìm, những kẻ làm thịt trẻ con,” con gấu nói. “Họ rời thành phố vào ngày hôm kia để lên phương Bắc cùng nhiều đứa trẻ khác nữa. Sẽ không có ai nói cho các người về chúng đâu; họ giả như không biết gì hết, vì những kẻ làm thịt trẻ con mang lại cho họ tiền bạc và công việc. Giờ thì tôi không thích bọn làm thịt trẻ con, vì thế tôi sẽ trả lời câu hỏi của ông một cách từ tốn. Tôi ở lại đây và uống rượu vì những người đàn ông ở đây đã lấy mất áo giáp sắt của tôi, không có nó, tôi vẫn có thể săn hải cẩu, nhưng không thể tham gia chiến tranh; vì tôi là một con gấu mặc áo giáp sắt: chiến tranh là biển để tôi bơi, là không khí để tôi thở. Những người đàn ông trong thành phố này chuốc cho tôi uống say ngủ lịm đi, rồi chúng lấy áo giáp sắt của tôi. Nếu tôi biết chúng giấu nó ở đâu, tôi có thể… tôi có thể xới tung cả thành phố này lên để tìm cho ra. Nếu ông muốn tôi phục vụ ông, tiền công phải trả là: hãy mang trả cho tôi bộ áo giáp. Hãy làm như thế, và tôi sẽ phục vụ các người trong chiến dịch của các người, dù đến khi tôi chết hay các người giành được người. Tiền công chính là bộ áo giáp sắt. Tôi muốn có lại nó, rồi tôi sẽ không bao giờ cần đến rượu nữa.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3