Ánh sáng phương Bắc (Tập 1) - Phần II - Chương 11 - Phần 1

Chương 11: Bộ áo giáp sắt

Khi họ quay trở lại tàu, Farder Coram, John Faa và những
lãnh tụ khác bàn bạc rất lâu trong phòng khách, còn Lyra quay về cabin để hỏi
La bàn vàng. Trong vòng năm phút, cô biết chính xác bộ áo giáp sắt đang ở đâu,
và tại sao việc mang nó trở về lại khó khăn đến thế.

Cô băn khoăn không biết có nên đến phòng khách và nói với
John Faa cùng những người khác hay không, nhưng cô quyết định cứ để họ hỏi nếu
họ muốn biết. Có lẽ họ đã biết rồi.

Cô nằm trên giường và nghĩ về con gấu to lớn hung dữ, cái
cách bất cần đời khi nó uống thứ rượu mạnh cháy ruột và sự cô độc của nó trong
căn lều bẩn thỉu. Tại sao với con người thì lại khác xa đến thế, luôn có một
con nhân tinh bên cạnh để nói chuyện! Trong sự tĩnh lặng của con tàu đang đứng
yên, không có những tiếng kim loại và gỗ va vào nhau loảng xoảng liên hồi hay
tiếng động cơ gào rú hay tiếng nước vỗ hai bên mạn tàu, Lyra dần chìm vào giấc
ngủ, Pantalaimon cũng ngủ trên gối cô.

Khi đang mơ về người cha vĩ đại đang bị cầm tù của mình
thì đột nhiên, cô choàng tỉnh. không biết lúc đó là mấy giờ. Có một ánh sáng lờ
mờ trong cabin mà cô cho là ánh trăng, nó chiếu sáng những quần áo lông mới mua
của cô để ở góc cabin. Vừa nhìn thấy chúng, cô đã muốn mặc chúng lên người một
lần nữa.

Khi đã mặc xong, cô lên boong, một phút sau cô đã ở cánh
cửa phía trên cùng của cầu thang và bước ra ngoài.

Ngay lập tức cô thấy có điều gì kỳ lạ đang xảy ra trên
bầu trời. Cô nghĩ đó là các đám mây, di chuyển và rung rinh, nhưng Pantalaimon
thì thầm:

“Hiện tượng cực quang!”

Cô bất ngờ đến nỗi phải bám lấy thành tàu để khỏi ngã.

Cảnh tượng choán hết bầu trời phía bắc; sự rộng lớn mênh
mông của nó khó mà tưởng tượng được. Như thể từ chính Thiên đường, những bức
màn khổng lồ của ánh sáng huyền ảo đang treo và run rẩy. Màu xanh lá cây nhạt
và màu hoa hồng, trong suốt như pha lê. Ở gờ dưới một vực thẳm đỏ sẫm như lửa
Địa ngục, chúng đu đưa và lung linh duyên dáng hơn bất cứ vũ công lành nghề
nào. Lyra nghĩ thậm chí cô có thể nghe thấy chúng: một lời thì thầm ở rất xa.
Trong khoảnh khắc, cô cảm thấy có điều gì hụt hẫng giống cảm giác khi ở gần con
gấu. Cô cảm động vì cảnh tượng này: nó quá đẹp, gần như là cảnh thần tiên. Cô
cảm giác như nước mắt đang trào ra, và những giọt nước mắt khiến ánh sáng vụn
ra thành những cầu vồng rực rỡ. Rất nhanh chóng cô nhận ra mình đang bước vào
một cánh cổng giống như lúc cô hỏi ý kiến La bàn vàng. Có thể là, cô lặng lẽ
nghĩ, điều khiến kim của La bàn vàng quay cũng làm cho hiện tượng cực quang
phát sáng. Thậm chí có thể chính nó là Bụi. Cô nghĩ thế mà không hề để ý là
mình đang nghĩ và nhanh chóng quên đi, và chỉ nhớ lại điều này rất lâu sau đó.

Khi cô nhìn chăm chú, hình ảnh một thành phố dường như tự
hình thành dưới những dải và dòng màu sắc trong mờ: các tháp chuông và mái vòm,
những ngôi đền và hàng cột màu mật ong. Nhìn nó khiến cô có cảm giác chóng mặt,
như thể không phải cô đang nhìn xuôi mà là nhìn ngược, và cho cô cảm giác về
một vực thẳm rộng lớn đến mức không gì có thể vượt qua đư̖c. Đó là cả một thế
giới cách biệt.

Nhưng có gì đó đang bay qua nó, trong khi cô đang cố dõi
theo, cô cảm thấy chóng mặt và hoa mắt, dù vật nhỏ bé đang chuyển động không
phải một phần của Hiện tượng cực quang hay của thế giới khác phía sau nó. Nó ở
trên bầu trời bên trên những mái nhà thành phố. Khi cô có thể nhìn nó rõ hơn,
cô trở nên hoàn toàn tỉnh táo và thành phố trên bầu trời biến mất.

Thứ đang bay đến gần hơn, lượn vòng quanh chiếc tàu với
sải cánh mở rộng. Rồi nó lượn xuống, đôi cánh vỗ nhanh mạnh mẽ và đậu xuống
nghỉ trên sàn tàu bằng gỗ cách cô vài mét.

Trong ánh sáng của Hiện tượng cực quang cô nhìn thấy một
con chim rất lớn, một con ngỗng màu xám duyên dáng, trên đầu đeo vương miện
trắng muốt. Cuối cùng cô nhận ra nó không phải một con chim: đó là một con nhân
tinh, dù Lyra không còn nhìn thấy ai bên cạnh nó nữa Điều này khiến cô cảm thấy
vô cùng sợ hãi.

Con chim
nói:

“Farder
Coram đâu?”

Ngay lập tức
Lyra nhận ra nó là ai. Đây là con nhân tinh của Serafina Pekkala, nữ hoàng của
bộ tộc phù thủy, người bạn phù thủy của Farder Coram.

Cô lắp bắp
trả lời:

“Tôi…ông
ấy…tôi sẽ đi gọi ông ấy…”

Cô quay
người chạy đi và lao xuống cầu thang dẫn đến cabin của Farder Coram, mở cửa và
nói vào bóng tối:

“Farder
Coram! Con nhân tinh của bà phù thủy đến! Nó đang đợi trên boong tàu! Nó tự bay
đến đây, cháu nhìn thấy nó bay trên bầu trời…”

Tiếng ông
già vang lên. “Bảo nó chờ ta ở boong phía đuôi tàu, cô bé.”

Con ngỗng
trịnh trọng đi xuống đuôi tàu, ở đó nó nhìn xung quanh, trang nhã và cũng rất
hoang dã. Một nỗi e sợ thú vị dấy lên trong lòng Lyra, cô cảm thấy như mình
đang đối di với một bóng ma.

Sau đó
Farder Coram xuất hiện, quấn mình một lớp áo ấm, John Faa theo sát bên cạnh. Cả
hai người đàn ông đều cung kính cúi mình, nhân tinh của họ cũng chào vị khách
mới đến.

“Xin chào
mừng,” Farder Coram nói. “Tôi rất vui và vinh hạnh lại được gặp lại ngài,
Kaisa. Giờ thì, ngài có muốn vào bên trong không, hay muốn ở bên ngoài như thế
này?”

“Tôi muốn ở
ngoài này hơn, cảm ơn ông, Farder Coram. Ông có chịu lạnh được một lúc không?”

Các phù thủy
và nhân tinh của họ không cảm thấy lạnh, nhưng họ biết con người thì có.

Farder Coram
cam đoan với nó rằng mọi người đều đã mặc đủ ấm và nói:

“Serafina
Pekkala thế nào?”

“Bà ấy gửi
lời chào mừng đến ông, Farder Coram, bà ấy vẫn ổn và khỏe mạnh. Hai người này
là ai?”

Farder Coram
giới thiệu hai người. Con ngỗng nhìn Lyra chằm chằm.

“Tôi đã nghe
về đứa bé này,” nó nói. “Nó được nhắc đến trong đám phù thủy. Vậy nó đến đây để
gây chiến tranh phải không?”

“Không phải
chiến tranh, Kaisa ạ. Chúng tôi cần trả tự do cho những đứa trẻ của chúng tôi
đã bị đánh cắp. Và tôi hy vọng các phù thủy sẽ giúp đỡ.”

“Không phải
tất cả bọn họ đâu. Một vài bộ tộc đang làm việc Những kẻ săn Bụi.”

“Đó có phải
là cách ngài gọi Ủy ban Tôn giáo không?”

“Tôi không
biết Ủy ban này có ý nghĩa là gì. Họ là Những kẻ săn Bụi. Mười năm trước họ đến
vùng đất này của chúng tôi với những thiết bị khoa học. Họ trả tiền cho chúng
tôi để được phép lập các trạm trên đất đai của chúng tôi, và họ đối xử với
chúng tôi rất lịch sự.”

“Thứ Bụi này
là gì vậy?”

“Nó đến từ
bầu trời. Người thì nói nó luôn luôn ở đó, người thì nói nó mới rơi xuống. Điều
đương nhiên là khi mọi người nhận thức được về nó, một nỗi sợ hãi ghê gớm bao
trùm lên họ và họ sẽ không từ một biện pháp nào để tìm hiểu về nó. Nhưng những
điều này chẳng liên quan gì đến các phù thủy.”

“Và bọn họ
đang ở đâu, Những kẻ săn Bụi ấy?”

“Cách đây
bốn ngày đường về phía đông bắc, tại một nơi có tên là Bolvangar. Bộ lạc của
chúng tôi không có thỏa thuận gì với họ cả, còn giao ước xưa với ông, Farder
Coram, tôi sẽ phải chỉ cho ông cách tìm được Những kẻ săn Bụi đó.”

Farder Coram
mỉm cười, John Faa vỗ hai bàn tay to lớn của mình vào nhau với thái độ hài
lòng.

“Cảm ơn lòng
tốt của ngài,” ông nói với con ngỗng. “Nhưng hãy nói cho chúng tôi biết điều
này: ngài có biết thêm bất cứ điều gì về Những kẻ săn Bụi này không? Họ làm gì
tại Bolvangar?”

“Họ đã xây
dựng các tòa nhà bằng kim loại và bê tông, những căn buông dưới lòng đất. Họ
đốt thứ than mà họ đưa đến rất tốn kémôi không biết họ làm gì, nhưng có một bầu
không khí căm ghét, sợ hãi bao trùm nơi đó và hàng dặm xung quanh. Các phù thủy
có thể nhìn thấy những điều con người không thể. Các con vật cũng tránh xa chỗ
đó. Không có loài chim nào bay qua chỗ đó, loài lemmut và cáo đã chạy trốn hết.
Kể từ đó, cái tên Bolvangar có nghĩa là: vùng đất của quỷ dữ. Họ không gọi nó
như thế. Họ gọi nó là Trạm. Nhưng với tất cả những người khác, nó là
Bolvangar.”

“Ở đó họ bảo
vệ an toàn như thế nào?”

“Họ có một
đội quân người Tartar phương Bắc trang bị súng trường. Đó là những chiến binh
thiện chiến, nhưng họ không được rèn luyện, vì chưa có ai từng tấn công vào nơi
đó kể từ khi nóđược xây dựng. Hơn nữa có một hàng rào dây kim loại xung quanh
khu vực đó, được tích đầy điện anbaric. Có thể còn có những hình thức bảo vệ
khác nữa mà chúng tôi không biết, vì như tôi đã nói, họ chẳng liên quan gì đến
chúng tôi cả.”

Lyra đang
nóng lòng muốn hỏi, con nhân tinh ngỗng biết điều này nên nó nhìn cô như thể
cho phép cô.

“Tại sao các
phù thủy lại nói về tôi?” cô hỏi.

“Vì người
cha của cô, hiểu biết của ông ấy về những thế giới khác,” con nhân tinh trả
lời.

Điều này làm
kinh ngạc cả ba người. Lyra nhìn sang Farder Coram, ông nhìn lại đầy vẻ thắc
mắc, rồi nhìn John Faa, người đang có vẻ rất lo lắng.

“Những thế
giới khác sao?” ông hỏi. “Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ngài, nhưng đó có thể là
những thế giới nào? Có phải ý ông nói đến những ngôi sao không?”

“Thực sự là
không.”

“Có lẽ là
thế giới về tâm linh chăng?” Farder Coram nói.

“Cũng không
phải.”

“Có phải là
thành phố không ánh sáng không?” Lyra hỏi. “Là phải vậy không?”

Con ngỗng
quay đầu về phía Lyra. Mắt nó màu đen, viền một nét mảnh màu xanh da trời,
nhưng cái nhìn chăm chú của nó thật dữ dội.

“Đúng vậy,”
nó nói. “Các phù thủy đã biết về những thế giới khác hàng nghìn năm nay. Thỉnh
thoảng các người có thể nhìn thấy nó trong Ánh Sáng Phương Bắc. Nó hoàn toàn
không phải là một phần của vũ trụ. Ngay cả những ngôi sao ở xa nhất cũng là một
phần của vũ trụ này, nhưng ánh sáng cho chúng ta thấy một thế giới hoàn toàn
mới. Không cách xa, nhưng đan xen với thế giới này. Tại đây, trên boong tàu
này, hàng triệu thế giới khác đang tồn tại, không biết đến nhau…”

Nó vươn cánh
ra và sải rộng trước khi gập lại như cũ.

“Đó,” nó
nói. “Tôi vừa mới chạm khẽ vào mười triệu thế giới khác, và chúng không biết gì
về nó. Chúng ta rất gần nhau, nhưng chúng ta không thể chạm vào hay nghe hay
nhìn thấy những thế giới này ngoại trừ trong Ánh Sáng Phương Bắc.”

“Và tại sao
lại như vậy?” Farder Coram hỏi.

“Vì những
hạt tích điện trong Hiện tượng cực quang có tính chất làm cho vật chất của thế
giới trởnên loãng hơn, nhờ đó chúng ta có thể nhìn xuyên qua nó trong một
khoảng thời gian ngắn. Các phù thủy luôn biết điều này, nhưng hiếm khi chúng
tôi nói v nó.”

“Cha cháu
tin vào điều này,” Lyra nói. “Cháu biết thế vì cháu đã nghe ông ấy thuyết trình
và mọi người xem các bức ảnh chụp hiện tượng cực quang.”

“Chuyện này
có gì liên quan đến Bụi không?” John Faa hỏi.

“Ai có thể
nói chắc được?” Con nhân tinh ngỗng nói. “Tất cả những gì tôi có thể nói cho
các người là Những kẻ săn Bụi rất sợ nó như thể nó là một thứ chất độc chết
người. Đó là nguyên nhân họ bắt giam Ngài Asriel.”

“Nhưng tại
sao chứ?” Lyra hỏi.

“Họ nghĩ ông
ta định dùng Bụi để làm một cây cầu nối giữa thế giới này và thế giới khác
trong ánh sáng của hiện tượng cực quang bằng một cách nào đó.”

Đầu Lyra trở
nên trống rỗng.

Cô nghe thấy
Farder Coram hỏi:

“Và đúng là
ông ta có dự định đó chứ?”

“Đúng vậy,
con nhân tinh ngỗng trả lời. “Họ không tin là ông ta có thể, vì họ nghĩ ông ta
điên thì mới tin rằng có những thế giới khác. Nhưng sự thực là như vậy: đó là dự
định của ông ta. Và ông ta là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến nỗi họ sợ ông
ta sẽ gây phiền phức cho các kế hoạch của mình. Vì thế họ thỏa thuận với những
con gấu mặc áo giáp sắt để bắt ông ta và giam vào một pháo đài ở Svalbard, rất
xa xôi hẻo lánh. Có lời đồn rằng một phần trong cuộc mặc cả quy định họ phải
giúp vua gấu giành được vương quyền.”

Lyra hỏi:
“Những phù thủy có muốn ông ấy tạo ra chiếc cầu không? Họ đứng về phía ông ấy
hay là chống lại?”

“Đây là câu
hỏi mà câu trả lời sẽ rất phức tạp. Thứ nhất, các phù thủy không đoàn kết với
nhau. Có rất nhiều ý kiến trái ngược giữa chúng tôi. Thứ hai, cây cầu của Ngài
Asriel bị đe dọa bởi một cuộc chiến tranh đang có nguy cơ bùng nổ hiện nay giữa
các phù thủy và nhiều thế lực khác, một vài trong đó là ở thế giới tâm linh.
Việc sở hữu cây cầu, nếu nó tồn tại thực sự, sẽ mang lại lợi thế ghê gớm cho
người giành được nó. Thứ ba, bộ tộc phù thủy của Serafina Pekkala — bộ tộc của
tôi — vẫn chưa tham gia một đồng minh nào, dù chúng tôi đang phải chịu áp lực rất
lớn bắt phải tuyên bố theo phe nào. Cô thấy đấy, đó là các vấn đề chính trị
quan trọng và không phải dễ giải quyết.”

“Còn về
những con gấu thì sao?” Lyra hỏi. “Chúng theo phe nào?”

“Theo phe
nào trả tiền cho chúng. Chúng không quan tâm dù chuyện xảy ra thế nào. Chúng
không có nhân tinh. Chúng không quan tâm về các vấn đề của con người. Ít nhất
thì loài gấu cũng thường như vậy, nhưng chúng tôi có nghe nói vua mới của chúng
đang có ý đồ thay đổi những đường lối cũ… bằng bất cứ giá nào. Những kẻ săn Bụi
cũng phải trả tiền để chúng bắt giam Ngài Asriel, và chúng sẽ giữ ông ta ở
Svalbard cho đến khi giọt máu cuối cùng rơi khỏi cơ thể của con gấu sống sót
cuối cùng.”

“Nhưng không
phải tất cả các con gấu đều như vậy!” Lyra nói. “Còn có một con không ở trên
Svalbard. Nó là một con gấu bị ruồng bỏ, và nó sắp đến với chúng tôi.”

Con ngỗng
lại nhìn Lyra chằm chằm. Lần này cô có thể cảm nhận được sự ngạc nhiên lạnh
lùng của nó.

Farder Coram
vặn vẹo người một cách không thoải mái và nói:

“Sự thực là,
Lyra, ta không nghĩ nó như vậy đâu. Chúng ta nghe nói nó đang phải lao động như
một kẻ bị đi đày, nó không tự do, như chúng ta vẫn tưởng, nó đang phải lĩnh án.
Cho đến khi nó được tha, nó không thể tự do đi cùng chúng ta, dù là có bộ áo
giáp sắt hay không; và nó cũng không thể lấy lại được bộ áo giáp sắt đó.”

“Nhưng nó
nói người ta đã lừa nó! Họ cho nó uống say rồi ăn cắp bộ áo giáp sắt mang đi!”

“Chúng ta
lại được nghe một câu chuyện khác.” John Faa nói. “Nó là một kẻ lừa đảo nguy
hiểm, người ta nói như vậy đấy.”

“Nếu…” Lyra
cảm thấy giận dữ, cô khó lòng nói lên sự bực bội của mình. “Nếu La bàn vàng nói
điều gì đó, cháu biết là nó nói thật. Cháu đã hỏi nó, nó nói con gấu đó đã nói
thật, đúng là người ta đã lừa nó, người ta đã nói dối chứ không phải nó. Cháu
tin nó, Ngài Faa! Farder Coram — ông cũng đã gặp nó, ông cũng tin nó, đúng vậy
không?”

“Ta nghĩ là
ta đã tin nó, cô bé ạ. Ta cũng chắc chắn về điều đó như cháu vậy.”

“Nhưng họ sợ
hãi điều gì chứ? Có phải họ nghĩ nó sẽ đi lung tung và giết người ngay khi có
lại được bộ áo giáp sắt? Ngay bây giờ nó đã có thể giết hàng tá người rồi!”

“Nó đã làm
như vậy.” John Faa nói. “Ồ, nếu không phải là hàng tá, thì cũng vài người. Ngay
sau khi người ta tước mất của nó bộ áo giáp sắt, nó điên cuồng tìm kếm khắp mọi
nơi. Nó phá tan hoang đồn cảnh sát, ngân hàng và ta không biết còn nơi nào nữa
hay không. Có ít nhất hai người đàn ông bị nó giết chết. Lý do duy nhất người
ta chưa bắn chết nó là khả năng tài tình với đồ kim loại của nó, người ta muốn
dùng nó như một thợ thủ công.”

“Như một nô
lệ thì đúng hơn!” Lyra nóng nảy nói. “Họ không có quyền làm như vậy.”

“Đáng ra họ
đã có thể bắn chết nó vì tội giết người, nhưng họ không làm như vậy. Họ bắt nó
lao động phục vụ dân thành phố cho đến khi nó trả được tiền bồi thường tổn thất
và tiền bồi thường cho thân nhân người bị giết.”

“John,”
Farder Coram nói, “tôi không biết anh cảm thấy thế nào, nhưng tôi tin là họ sẽ
chẳng bao giờ trả lại bộ áo giáp sắt cho nó. Họ càng giam chân nó lâu, nó sẽ
càng giận dữ khi lấy lại được bộ áo giáp sắt.”

“Nhưng nếu
chúng ta tìm lại bộ áo giáp sắt cho nó, nó sẽ đi cùng chúng ta và không bao giờ
làm phiền họ nữa,” Lyra nói, “cháu hứa đấy, Ngài Faa.”

“Làm thế nào
chúng ta làm thế được?”

“Cháu biết
nó ở đâu!”

Sau đó là sự
im lặng, cả ba người nhận thấy con nhân tinh của bà phù thủy đang nhìn Lyra
chằm chằm. Cả ba người quay sang nó, ba con nhân tinh cũng vậy, chúng đến vẫn
giữ đúng phép lịch sự không nhìn vào con nhân tinh đi một mình có chủ bên cạnh
này.

“Cô sẽ không
ngạc nhiên đâu,” con ngỗng nói, “khi biết rằng La bàn vàng là một nguyên nhân
khác khiến các phù thủy quan tâm đến cô, Lyra ạ. Ông Lãnh sự đã nói cho chúng
tôi biết về cuộc viếng thăm của cô sáng nay. Tôi tin là chính Tiến sĩ Lanselius
đã nói cho các người về chuyện con gấu.”

“Vâng, đúng
là vậy,” John Faa nói. “Cô bé và Farder Coram đã đến ông ấy. Tôi dám chắc điều
Lyra nói là sự thực, nhưng nếu chúng ta vi phạm luật lệ của những người bản
địa, chúng ta sẽ chỉ vướng vào tranh chấp với họ. Điều chúng ta cần làm là tiến
nhanh về phía Bolvangar, dù có con gấu có đi cùng hay không.”

“À, nhưng
anh vẫn chưa nhìn thấy nó, John ạ,” Farder Coram nói. “Và tôi thực sự tin Lyra.
Chúng tôi có thể thay mặt nó để hứa, có thể là như vậy. Nó có thể làm mọi
chuyện khác hắn.”

“Ý kiến của
ngài thế nào?” John Faa nói với con nhân tinh của bà phù thủy.

“Chúng tôi
ít qua lại với những con gấu. Những mong muốn của chúng xa lạ với chúng tôi như
những mong muốn của chúng tôi xa lạ với chúng vậy. Nếu con gấu này bị ruồng bỏ,
có thể nó không đáng tin như người ta nói. Các người phải tự phải quyết định
thôi.”

“Chúng tôi
sẽ làm như vậy,” John Faa nói chắc chắn. “Nhưng bây giờ, thưa ngài, ngài có thể
nói cho tôi làm thế nào để đến được Bolvangar không?”

Con nhân
tinh ngỗng bắt đầu giảng giải. Nó nói về những thung lũng và đồi núi, về những
hàng cây và lãnh nguyên, về những ánh sao. Lyra lắng nghe một lúc rồi ngồi
xuống chiếc ghế trên boong với Pantalaimon cuốn quanh cổ và nghĩ về viễn cảnh
tươi sáng con nhân tinh ngỗng mang tới. Một cây cầu nối liền hai thế giới… Điều
này choáng ngợp hơn bất cứ thứ gì cô từng hy vọng! Và chỉ có người cha vĩ đại
của cô mới có thể biến nó thành hiện thực. Ngay cả khi họ cứu được bọn trẻ, cô
sẽ đến Svalbard cùng con gấu và đưa La bàn vàng cho Ngài Asriel, dùng nó để
giải thoát cho ông; họ sẽ cùng xây dựng chiếc cầu, và là người đầu tiên bước
qua…

Chắc vào ban
đêm, John Faa đã bế Lyra về giường, vì khi thức giấc cô thấy mình ở đó. Mặt
trời lờ mờ đã lên cao đến mức nó có thể, chỉ cách đường chân trời một sải tay,
vì thế chắc chắn đã gần trưa, cô nghĩ vậy. Rất nhanh thôi, khi họ đi xa hơn về
phía bắc, sẽ không còn mặt trời nữa.

Cô nhanh
chóng thay quần áo và chạy lên boong. Tất cả hàng hóa đã được dỡ xong, xe kéo
và đội chó kéo xe đã được thuê và chuẩn bị xuất phát. Mọi thứ đã sẵn sàng nhưng
chưa có gì bắt đầu cả. Phần lớn những người Gypsy đang ngồi trong một quán cà
phê mù mịt khói thuốc lá nhìn ra mặt nước, ăn bánh kẹp và uống cà phê đặc pha
đường trên một chiếc bàn gỗ dài dưới tiếng xì xèo kêu lách tách của mấy ngọn
đèn anbaric cổ xưa.

“Ngài Faa
đâu rồi?” cô hỏi rồi ngồi xuống chỗ Tony Costa và các bạn anh. “Và cả Farder
Coram nữa? Có phả đang đi lấy bộ áo giáp sắt về cho con gấu không?”

“Họ đang nói
chuyện với quận trưởng. Đó là từ họ dùng để chỉ nhà cầm quyền. Vậy là cô đã
nhìn thấy con gấu đó, phải không Lyra?”

“Vâng!” cô
nói, và kể về con gấu. Trong khi cô kể, có ai đó kéo một chiếc ghế đến ngồi
cùng cả nhóm tại bàn.

“Vậy là cô
đã nói chuyện với Iorek phải không?” ông hỏi.

Cô ngạc
nhiên nhìn người mới đến. Đó là một người đàn ông cao, gầy gò với hàng ria mép
mỏng và màu xanh lơ, có một vẻ gì đó xa cách và khôi hài châm biếm thường trực.
Cô có ấn tượng sâu sắc với ông ngay lập tức, dù không chắc đó là yêu thích hay
không yêu thích. Nhân tinh của ông ta là một con thỏ rừng bẩn thỉu gầy gò, lôi
thôi giống hệt chủ.