Hòn đảo cá heo xanh - Chương 05 - 06
CHƯƠNG V
NGÔI NHÀ MỚI
Khi tôi tỉnh dậy trời đã vào đêm. Nước biển dâng cao, và sóng biển vỗ vào chân tôi. Tôi bò lên chỗ cao hơn rồi ngủ tiếp.
Trời sáng, tôi lấy các túi xách ra khỏi xuồng. Sau đó tôi leo lên đồi, giờ lại là nhà của tôi. Từ chỗ tảng đá cao, tôi nhìn xuống. Tôi trông thấy mọi vật mà tôi yêu mến. Bọn rái cá đùa giỡn trong đám tảo. Sóng biển trắng xóa đập vào các tảng đá. Chim bay lượn trên bầu trời. Tôi cảm thấy rất vui sướng.
Tôi nhớ lại sự sợ hãi của tôi khi còn ở trên xuồng. Và khi tôi tin chắc một điều “Tôi sẽ không bao giờ rời đây nữa,” tôi tự nhủ. “Đảo Cá Heo Xanh là nhà của tôi. Nó sẽ là nhà của tôi cho đến khi những người da trắng trở lại với chiếc tàu của họ. Có thể trong nhiều tháng, họ chưa trở lại, tôi phải dựng cho mình một ngôi nhà và tạo ra một chỗ để có thể giữ được thực phẩm.”
Tôi có thể dựng ngôi nhà ở dưới chân tảng đá chỗ đất trống. Nơi đó không xa biển, có một con suối chảy qua cái khe sâu sau tảng đá. Nơi đó núp được gió mạnh, đứng là một nơi sống thoải mái.
Còn có một chỗ khác, tôi nhớ lại, nằm ở dọc bờ biển. Nơi này nằm về phía tây khoảng một dặm. Nhưng khi tôi đến đấy vào buổi sáng hôm đó, tôi đã gặp một sự ngạc nhiên không vui. Nơi đó gần một cái hang, nơi bọn chó sinh sống.
Con chó đầu đàn nghe bước chân tôi, nó ra cửa hang đứng nhìn. Nó đứng đó và nhìn tôi với đôi mắt vàng khè. Tôi phải giết nó và bọn kia trước khi tôi dựng nhà. Dĩ nhiên là tôi muốn giết nó nhưng tôi có thời gian để chuẩn bị.
Có những khối đá cao ở chỗ này và một con suối nước rất tốt, trong lành. Tôi có thể trông thấy bờ biển và bãi biển. Bỗng tôi nghe có tiếng các con hải tượng. Lúc đso tôi hiểu cái đồi chỗ tôi ở là nơi tốt nhất.
Những dốc đá ở đây thấp, có một bậc thềm đi xuống, bên trên các tảng đá. Bọn hải tượng thích nơi này. Khi có dông bão, chúng chạy lên bậc thềm. Lúc thời tiết tốt, chúng bắt cá trong mấy giếng đá. Chúng thường nằm trên đá để phơi nắng.
Bọn hải tượng rất ồn ào. Con đực là con thú rất to. Con cái nhỏ hơn, nhưng bọn chúng làm ồn hơn bọn con đực. Còn lũ con không bao giờ chịu im, ngay cả lúc ban đêm.
Sáng hôm đó, bọn chúng đều ra biển, cách xa các khối đá. Thế nhưng tiếng ồn thật khủng khiếp. Tôi biết tôi không thể ngủ ở chỗ đó. Do vậy tôi trở về ngọn đồi của tôi.
Trời mưa vào đêm và kéo dài suốt hai ngày. Tôi làm một cái mái bằng các thanh cây và lá ở dưới chân tảng đá, mái che giúp tôi tránh được nước mưa. Tôi có đủ thức ăn, nhưng nhà rất lạnh và ẩm. Tôi không thể nhóm lửa dưới trời mưa!
Vào ngày thứ ba mưa dứt. Tôi đi ra ngoài và gom nhặt mọi thứ cần cho ngôi nhà. Tôi cần một cây cột và một số vật liệu để làm một cái hàng rào vững chắc. Tôi lên ngay kế hoạch giết chó, nhưng trước tiên tôi cần phải bảo vệ thực phẩm chống lại hàng mấy trăm con cáo nhỏ có lông đỏ ở khắp trên đảo. “Mình không hi vọng giết hết bọn cáo với cung tên.” Tôi nghĩ. “Thực phẩm của mình sẽ không bao giờ an toàn cho đến lúc mình làm xong hàng rào.”
Hòn đảo trông mát mẻ và đằm thắm sau cơn mưa. Tôi vừa hát vừa đi xuống lòng khe. Đó là một ngày tốt đẹp để khởi sự xây dựng ngôi nhà mới của tôi.
Mấy năm trước, dông bão đã đẩy hai con cá voi lên bãi. Chúng tôi ăn thịt. Phần còn lại chúng tôi chồn vùi dưới cát.
Tôi đào lấy xương cá voi, dùng chúng làm hàng rào. Tôi đặt chúng sát nhau. Sau đó, tôi cột chặt với rong ướt. Sau này rong khô, rong sẽ siết chặt chúng lại với nhau hơn. Đá cũng là một phần của hàng rào. Hàng rào cao bằng tôi và rất vững chắc.
Tôi không làm cửa ra vào chỗ hàng rào những trổ một cái lỗ bên dưới nó. Bên trong, tôi lấp lỗ bằng một tảng đá lớn, bằng phẳng. Trời quá lạnh để có thể ngủ trên tảng đá cao, do thế tôi cảm thấy mình được an toàn hoàn toàn bên trong hàng rào. Mỗi đêm tôi ngủ nơi đây cho đến lúc ngôi nhà xong hẳn.
Dân làng chúng tôi tin rằng ngày xưa đảo phủ đầy những cây cao. Lúc đó đã lâu lắm rồi, lúc thế giới mới tạo lập. Tumaiyowit và Mukat là hai vị thần, họ thường đánh nhau. Tumaiyowit muốn con người phải chết, Mukat không muốn. Tumaiyowit rất tức giận và đi vào một thế giới khác, bên dưới thế giới này. Thần lấy đi các cây cao và một số đồ vật khác nữa.
Tôi phải đi lùng nhiều ngày mới tìm đủ cây để dựng nhà. Có bốn cây cột ở bốn góc và tám thanh khác để làm mái. Lưng nhà dựng vào vách đá, mặt tiền để trống. Do vậy tôi chỉ phải lợp hai bên. Tôi lợp hai bên và nóc bẳng lá rêu rộng.
Cho đến giữa mùa đông ngôi nhà mới xong. Bọn cáo thường đến và đứng bên ngoài hàng rào. Chúng nhìn qua các lỗ hổng hàng rào trong khi tôi nấu ăn bên trong. Bọn chó cũng đến, chúng thử gặm vào hàng rào. Chúng gây rất nhiều tiếng ồn nhưng không vào được. Tôi bắn được hai con, nhưng không phải là con đầu đàn. Tôi rất bận rộn nên không đuổi theo chúng đến tận hang.
Lúc bấy giờ thức ăn chủ yếu của tôi là ốc, cua, các con cá nhỏ. Tôi phải nấu nướng trên tảng đá phẳng. Sau này tôi tìm được hai khối đá có dạng một cái đĩa. Tôi đục cho chúng sâu hơn và rộng hơn. Giờ tôi đã có hai cái nồi nấu ăn mới. Và thế là sau đó tôi có thể thưởng thức món xúp cá.
Tôi cũng làm một cái túi để đựng nước. Đây là một công việc dễ dàng bởi vì trước đây tôi thường nhìn chị tôi làm. Tôi để các loại rau củ và nước vào trong túi, đoạn bỏ đá nóng vào trong đó. Thế là tôi được món xúp ngon, thay thế cho món xúp cá.
Lò lửa của tôi nằm trên sàn nhà có đá bao quanh. Tôi làm các cái giá để nồi và để thức ăn trên tường đá. Ngôi nhà ấm cúng, khô ráo và tiện nghie, an toàn đối với các con thú hoang. Tôi có thể nấu nướng mọi thứ thức ăn mà tôi muốn ăn. Mọi thứ tôi cần đều ở trong tầm tay của tôi.
Giờ đây tôi có thể nghĩ đến việc giết lũ chó. Tôi quyết định làm một cây giáo mới, nặng hơn, một cây cung to hơn và những mũi tên sắc hơn. Tôi làm cung và tên trước, và rất vừa lòng với các loại cung tên mới. Tôi có thể bắn xa và các mũi tên đi thẳng hơn.
Sau đó tôi bắt đầu làm cây giáo mới. Người của chúng tôi thường làm đầu mũi giáo với răng nanh hải tượng. Răng nanh của con đực vì răng của con cái quá bé. Người ta bắt con đực rồi giết nó với các thanh gỗ. Tôi không đủ sức để làm chuyện đó. Và tôi cũng biết tôi không thể giết con hải tượng đực với cung tên.
Nhưng tôi thật sự muốn một cái răng nanh để làm mũi giáo. Do vậy, tôi quyết đi viếng hang ổ của bọn hải tượng vào hôm sau.
CHƯƠNG VI
ĐÔI MẮT CÁO
Đêm đó, các suy tư cũ và sự sợ hãi lại trở lại. Luật của chúng tôi không cho phép đàn bà làm cung tên. “Tên có thể không bay thẳng.” Tôi suy nghĩ. “Và một người đàn ông sẽ tấn công tôi.” Hang lũ chó lại khá gần chỗ ở cũ bọn hải tượng. Sự nguy hiểm rất lớn.
Nhưng khi sáng đến, sự sợ hãi của tôi không còn. Tôi đến chỗ dốc đá thật sớm. Mấy con đực, giống như những khối đá xám, ngồi trên các bậc của dốc đá. Bên dưới, các con cái và lũ con của chúng chơi đùa trong nước. Có lẽ cái từ “bé con” không đúng nghĩa. Hải tượng nhỏ cũng to bằng một người lớn nhưng chúng chơi đùa giống như trẻ nhỏ. Chúng đi theo mẹ và la hét giống như con nít. Lúc đầu thì chúng sợ sóng biển, mẹ chúng phải đẩy chúng xuống nước. Không phải dễ đẩy một con thú to như thế.
Các con đực xấu xí, nguy hiểm, thích gây sự và đánh nhau. Có sáu con ngồi trên bậc đá trong ngày hôm đó, nhưng chúng không ngồi gần nhau. Từ trên dốc cao, tôi nhìn xuống và chọn con nhỏ nhất. Chúng hầu hết cùng một cỡ chỉ trừ một con. Nó ngồi một mình ở bậc đá cuối, trông còn rất trẻ. Không có những con cái trước mặt nó. Tôi chợt hiểu nó chưa có gia đình riêng. Vì lẽ đó, thật rất nguy hiểm khi tấn công nó.
Tôi bò nhẹ nhàng xuống. Con đường khá dài và tôi còn phải mang cung và tên nữa. Cây cung cao gần bằng tôi. Sau cũng tôi đến sau một tảng đá gần con đực trẻ. Tôi nhớ những lời cha tôi nói khi tôi thử tra tên vào cung. “Chắc chắn cung sẽ gãy trong đôi tay của người đàn bà.”
Tôi ở cách nó không xa, và nó đang nhìn ra biển. Tôi không biết phải bắn nó ở nơi đâu. Da lưng của con thú rất dày. Mũi tên không thể xuyên qua lưng nó. Nhưng cái đầu của nó lại nhỏ và không dễ gì bắn trúng.
Tôi đang suy nghĩ như thế thì con hải tượng bắt đầu di chuyển xuống bãi. Nó đi xuống chỗ các con cái thuộc về một trong các con đực già. Con hải tượng tuy nặng nề, nhưng nó có thể di chuyển nhanh. Con đực nhỏ đã đến gấn mặt nước. Mũi tên của tôi bay thẳng, và cây cung không gãy. Nhưng vào lúc đó, nó quay mình qua một bên. Mũi tên bay xuống biển.
Giừo thì con đực già đang ngồi trên bậc đá cũng di chuyển nhanh xuống dưới. Nó nhanh chóng tóm được con đực trẻ, với một tiếng kêu to đẩy con nhỏ văng ra khỏi bãi. Con đực trẻ ngã xuống nước, nằm yên, bất động.
Con lớn thét lên một tiếng to, nhào vội theo xuống nước. Nó đưa răng nanh cắm phập vào sườn con đực trẻ. Bỗng con này vùng dậy, đôi mắt ti hí của nó rực đỏ. Nó hành động nhanh hơn con lớn. Nó cắn mạnh vào cổ con kia và cắn thật chặt không buông. Hai con thú vật nhau trong nước.
Các con cái và đám con của chúng vội lội đi chỗ khác, còn các con đực khác vẫn ngồi yên trên các bậc thềm.
Con đực trẻ bị đè nằm ngửa nhưng răng của nó vẫn ghìm chặt vào cổ con lớn. Đây là dịp may cho tôi. Tôi có thể bắn một mũi tên vào chỗ phần mềm của nó, và có thể giết chết nó. Nhưng tôi muốn nó thắng trận, do vậy tôi không bắn.
Bỗng con lớn dùng đuôi chịu vào đá đẩy mạnh, răng của con nhỏ tuột ra khỏi cổ nó. Nó quay người và chạy vội đến chỗ tôi đang ẩn nấp. Con đực trẻ đuổi theo sát. Tôi rất sợ, vội lùi lại. Có một tảng đá phía sau tôi, tôi vấp ngã, khuỵu hai đầu gối xuống.
Tôi nghe chân tôi đau điếng, nhưng tôi đứng lên ngay. Con đực lớn quay mình lại và quặp răng sâu vào sườn con trẻ. Cuộc phản công bất ngờ đẩy con trẻ lùi xuống nước. Nước biển đỏ ngấu những máu. Nó chờ đợi trận tấn công tiếp theo. Con già lại nhào xuống. Tiếng kêu thét thật khủng khiếp. Chúng vật nhau dưới nước.
Trận chiến tiếp tục, nhưng tôi nhìn không rõ nữa. Trời đã tối sầm. Chân tôi đau quá, do vậy tôi rời dốc đá. Đường về nhà tôi còn xa lắm.
Sau bữa đó, tôi không thể rời nhà suốt năm ngày. Chân tôi đau, nó sưng to lên gấp đôi bình thường. Tôi có đủ thức ăn, nhưng đến ngày thứ sau, tôi cần nước uống. Tôi phải đi lấy nước từ con suối dưới khe sâu. Tôi rời nhà từ sáng sớm và tôi không thể đi. Tôi phải di chuyển bằng hai tay và đầu gối. Tôi cột cái túi trên lưng. Hai tay tôi kéo lê cây giáo, cung và tên. Đến trưa tôi mới đến khe. Nơi này không xa con suối, tôi nghỉ lấy sức một lúc.
Bỗng tôi thấy con chó to màu xám, con đầu đàn. Nó ở trong rừng cây bên trên tôi. Nó phát hiện ra tôi sau khi tôi phát hiện ra nó. Nó dừng lại, và những con chó khác dừng lại phía su nó. Tôi nâng cây cung lên và lắp tên vào. Con chó to quay mình bỏ đi, các con kia đi theo sau nó.
Trong lúc chúng bỏ đi, tôi lắng nghe. Chúng đi rất êm, tôi chẳng nghe gì cả. Tôi biết chúng sẽ tấn công tôi từ mọi phía. Chân tôi đau, nhưng tôi bò chậm chậm xuống. Cây cỏ ở đây rậm, do vậy tôi không thể dùng cung và tên. Tôi để chúng lại sau lưng, tay cầm chặt cây giáo.
Con suối từ khe một tảng đá chảy ra. Các tảng đá khá cao khác bao quanh cả ba phía, làm thành một cái hang. Bọn chó không thể tấn công tôi ở tại nơi đây. Do vậy tôi có thể uống nước thoải mái. Tôi cho nước vào đầy túi. Sau đó tôi di chuyển ra chỗ miệng hang.
Tôi nhắm vào đầu của con chó to, lông xám. Nó đứng im, đôi mắt vàng khè của nó theo dõi tôi từng bước. Hay hay ba cái đầu khác xuất hiện phía sau nó. Bọn chúng đứng quá xa nên tôi không thể dùng giáo. Cây cỏ động đậy phía bên kia khe. Bọn chó đang chờ tôi đi ngang qua chỗ chúng.
Tôi trở vô hang. Tôi nghe có tiếng chân chó chạy trên cỏ ở bên trên. Tôi ở đây an toàn. Bọn chó trở lại vào buổi tối, nhưng bọn chúng không đến gần hang.
Không có lửa nên hang rất lạnh. Tôi ở lịa tại đây sáu ngày cho đến lúc chân tôi khá hơn. Tôi chùi rửa hang, làm cho nói là nơi dễ sống hơn. “Nơi này có thể trở thành ngôi nhà thứ hai của mình.” Tôi nghĩ thế. “Có thể mình sẽ cần đến nó.”
Dân làng của tôi có lần sử dụng hang này. Hình cá heo, cá voi, hải tượng, chim chóc, chó, cáo, được khắc lên các bức tường đá. Còn có hai nơi có hình dạng cái chậu được khoét vào trong đá dùng để chứa nước.
Tôi làm thêm mấy cái bậc nhằm để thức ăn và rau quả. Tôi đem cung và tên về hang. Tôi làm một cái giường ngủ với một mớ cây khô tom góp được. Sau cùng tôi chặn miệng hang với đá. Tôi chừa một cái lỗ trên nóc để làm chỗ ra vào. Đó là những công việc nặng nhọc, những công việc của đàn ông. Nhưng tôi phải làm vì đó là cần thiết.
Sau đó tôi trở lại chỗ bọn hải tượng sinh sống. Xác con hải tượng già nằm trên bậc thềm cao. Chim đã ăn hết thịt. Nhưng tôi tìm được các vật và tôi cần: vài chiếc răng dài bằng bàn tay tôi. Tôi đem chúng về, gia công chút đỉnh. Tôi được bốn đầu mũi giáo đẹp, tôi bèn làm hai cây giáo. Tôi đã sẵn sàng đến chỗ hang chó.
Trên đảo của chúng tôi, thường luôn có chó. Nhưng tôi chưa hề thấy con chó nào to có lông xám như con đầu đàn trước khi bọn Aleut đến. Tôi nghĩ nó có thể đến với họ. Và họ đã bỏ quên nó lại khi họ ra đi. Nó giờ là con chó đầu đàn và tôi sẽ giết nó trước.
Tôi kiếm củi chất gần miệng hang của lũ chó và đợi cho tất cả bọn chó đã vào hang rồi mới châm lửa đốt. Tôi sử dụng cái cung to, năm mũi tên và hai cây giáo. Lửa cháy rất tốt, gió đưa khói vào miệng hang. Thật lâu mới có ba con chó chạy ra. Sau đó là bảy con, đoạn bảy con nữa. Tôi không bắn chúng, cho bọn chúng chạy đi.
Lúc đó con đầu đàn mới chịu ra. Nó phóng qua ngọn lửa và đứng gần hang. Nó hít hít đánh hơi. Tôi đứng gần nó đến nỗi thấy cánh mũi của nó phập phồng. Nó không thấy tôi cho đến khi tôi nâng cung lên. Nó quay nhìn tôi. Đôi mắt vàng của nó nheo lại. Tôi nghĩ nó sẽ nhảy chồm lên tôi. Mũi tên cắm ngay ngực nó. Nó quay mình và ngã xuống. Mũi tên tiếp theo đã không trúng nó.
Ba con nữa chạy ra khỏi hang. Tôi lại dùng cung bắn chết hai con. Sau đó tôi đưa giáo lên và quay nhìn con đầu đàn. Nó không còn ở chỗ đó nữa. Tôi đi tìm một lúc lâu, nhưng tôi không thấy nó đâu nữa.
Tôi đi dọc con đường mòn đến chỗ các dốc đá. Bỗng tôi thấy một đoạn của cây tên. Nó gãy gần mũi của cây tên. Sau cùng tôi thấy dấu chân của nó trên mặt đất, tôi đi theo dấu chân đó. Giờ đã sẫm tối, tôi không còn trông thấy rõ nữa. Tôi đến một đống đá và không còn trông thấy dấu chân của nó. Tôi đành bỏ đường mòn quay về nhà.
Sau đó trời mưa tầm tã suốt hai ngày, tôi không thể đi ra ngoài. Tôi làm một số tên mới. Sau đó tôi trở lại chỗ tôi thấy dấu chân của con đầu đàn.
Nó nằm sau đống đá. Mũi tên còn nằm trong ngực nó. Tôi tưởng nó đã chết. Tôi nâng cao giáo lên và sẵn sàng phóng vào nó. Đầu nó hơi nhấc lên một tí trước khi tôi phóng cây giáo. Tôi rất đỗi ngạc nhiên, dừng tay không phóng nữa.
Tôi leo lên đống đá và nhìn xuống. Giờ tôi biết nó không chết. Tôi quyết định dùng cung. Tôi lắp tên và chuẩn bị bắn vào đầu nó.
Nhưng tôi không bắn. Con chó to nằm đó, nó không động đậy. Tôi nhìn nó một hồi lâu. Sau đó tôi tuột xuống. Nó vẫn không nhúc nhích khi tôi đứng kế bên nó. Đầu mũi tên ghim trên ngực nó đẫm đầy máu. Bộ lông dày của nó đẫm nước mưa.
Dường như nó đang hấp hối. Tôi đỡ nó lên. Nó rất nặng. Tôi phải nghĩ lấy sức nhiều lần mới đưa nó về đến nhà. Tôi đặt nó lên sàn nhà. Nó không nhìn tôi hoặc nhấc đầu lên. Nhưng tôi biết nó không chết. Đầu mũi tên cắm sâu, nhưng lấy ra không khó lắm. Nó không cục cựa khi tôi lau mình mẫy nó. Tôi để một ít nước gần nó. Tôi phải ra ngoài tìm lương thực. Tôi không nghĩ là nó sẽ sống. Tôi ghét nó thế mà tôi để nó nằm trong nhà tôi!
Nhưng nó không chết lúc tôi trở về. Tôi nâng đầu nó lên, đổ một ít nước vào mồm nó. Nó nhìn tôi, đôi mắt nó trông giống hai cái hố sâu.
Đêm đó nó uống một ít nước. Sáng hôm sau, tôi để một ít thức ăn gần nó. Nó đã ăn thức ăn khi tôi ra ngoài. Đến khi tôi trở về, nó ngó theo tôi khi tôi nấu ăn. Đôi mắt vàng của nó nhìn theo tôi suốt.
Tôi sợ nó làm bậy, do vậy tôi ngủ trên tảng đá. Ngày hôm sau, tôi lại ra ngoài. Nhưng tôi không lấp cái lỗ ở chỗ hàng rào. Nó có thể ra đi nếu nó muốn.
Nó vẫn ở lại khi tôi trở về với hai con cá. Tôi nấu cá. Vì thương hại nó, tôi cho nó một con. Sau khi tôi ăn xong, nó đến nằm bên đống lửa. Nó luôn nhìn tôi với cặp mắt nho nhỏ, màu vàng.
Tôi ngủ trên đá bốn đêm. Tôi không bao giờ lấp lỗ hàng rào, và nó không hề đi đâu. Mỗi buổi chiều, nó chờ phần cá dành cho nó. Nhưng nó không nhận cá từ tay tôi. Tôi phải đặt cá xuống sàn nhà.
Ngày hôm sau, tôi trở về nhà sớm, nó không chờ tôi ở lỗ hàng rào. Tôi đột nhiên thấy buồn, tôi gọi “Chó! Chó!” tôi không biết tên nó. Tôi chui qua hàng rào và lại gọi nó. Nó đang ngủ trong nhà. Nó nghe tiếng tôi và bò dậy. Nó nhìn vào con cá, đoạn nhìn tôi. Đuôi nó bắt đầu vẫy.
Đêm đó, tôi ngủ trong nhà. Tôi nghĩ đến chuyện đặt tên cho nó. Tên là Rontu – trong ngôn ngữ của tôi, Rontu có nghĩa Mắt Cáo.
Tôi gọi “Rontu! Rontu!” Nó nhìn tôi và vẫy vẫy đuôi.