Hòn đảo cá heo xanh - Chương 03 - 04
CHƯƠNG III
RAMO EM TÔI
Nanko đi đi lại lại ở ngoài những ngôi nhà.
“Nhanh lên.” Anh la lớn. “Gió sẽ thổi mạnh. Tàu sẽ rời bến không có các chị.”
Tôi bỏ đầy hai túi xách các vật cần dùng – nồi nấu ăn, dao, hạt trai.
Chị Ulape cũng thế. Sau đó chị lấy một ít đất màu xanh vẽ một đường lên mặt băng qua mũi. Tại Ghalas-at, đó là dấu hiệu cô gái chưa chồng.
“Tàu đang rời bến kìa.” Nanko la lên.
“Nó sẽ trở lại sau cơn dông.” Ulape nói. Chị yêu Nanko nhưng cười chế nhạo anh.
“Những người khác sẽ trở lại đảo.” Chị nói lớn. “Họ sẽ tử tế và mạnh mẽ hơn những người này.”
Nanko vui vẻ đáp lại: “Các chị là những người đàn bà xấu xa làm cho họ sợ. Và họ sẽ lại bỏ đi.”
Gió rất mạnh khi chúng tôi rời làng. Đi một đỗi xa, Ramo nói với tôi nó bỏ quên cây giáo đi săn ở nhà.
“Đừng trở lại nhà.” Tôi nói. “Nếu em làm thế, em sẽ trễ tàu.”
Nó bỏ chạy trước khi tôi nắm nó lại.
Sóng đánh rất mạnh, do vậy tàu phải thả neo rất xa bờ. Bốn người đàn ông da trắng đứng gần hai chiếc xuồng. Họ nói chuyện với chúng tôi bằng thứ ngôn ngữ lạ, chúng tôi không thể trả lời họ.
Những người đàn ông dân làng chúng tôi và bọn con trai, ngoại trừ Nanko và thủ lĩnh Matasaip, đã lên tàu. Nanko nói Ramo cũng đã ở trên đó. Matasaip ra lệnh cho đàn bà chia làm hai nhóm. Người ta đẩy xuồng xuống nước, và chúng tôi tất cả leo lên xuồng.
Đi xa khỏi bờ, xuồng bị sóng lớn đập mạnh. Có một lúc chúng tôi trông thấy chiếc tàu, sau đó sóng lớn lại che khuất tàu đi. Nhưng sau cùng chúng tôi lên đến tàu an toàn.
Chiếc tàu lón hơn chiếc xuồng lớn nhất của chúng tôi nhiều lần. Chỉ huy tàu là một người đàn ông da trắng còn trẻ, có đôi mắt màu xanh và một bộ râu đen. Ông ta ra lệnh cho thủy thủ, các chiếc buồm trắng được kéo lên.
Tôi gọi Ramo, nhưng tiếng gió át cả tiếng la của tôi. Không có tiếng đáp trả của Ramo. Tôi đi tìm nó và tiếp tục gọi. Chẳng thấy nó. Không ai biế nó ở đâu. Tôi đến chỗ Nanko.
Tôi la to, lòng khiếp hoảng: “Em tôi đâu?”
“Nó ở trên tàu mà,” Nanko nói. “Nó đi trên chiếc xuồng đầu tiên.”
Chị Ulape đang đứng với chúng tôi, chị đứng nhìn qua phía đảo. Mắt tôi nhìn theo mắt chị. Ramo đang chạy dọc theo bờ đá cao, tay đưa cây giáo lên khỏi đầu.
Chiếc tàu đi xa dần. Mọi người đều nhìn lên bờ đá, ngay cả người da trắng cũng thế. Tôi chạy lại một trong bọn họ và chỉ thấy em tôi. Y quay lưng lại với tôi.
Matasaip đến chỗ tôi. “Chúng ta không thể dừng tàu vì Ramo.” Anh nói. “Nếu chúng ta làm thế, gió sẽ đẩy tàu đập vào đá.”
“Chúng ta phải dừng lại!” Tôi la lên. “Chúng ta phải dừng lại!”
“Tàu sẽ trở lại rước nó.” Matasaip nói. “Nó sẽ không sao. Trong làng có nước và thức ăn, và nó có thể ngủ trong làng.”
“Không được đâu!” Tôi la lên.
Gương mặt Matasaip trông hóa đá. Nhiều người khác cũng nói thế, nhưng họ không làm tôi yên tâm được. Chiếc tàu rẽ về hướng Đông. Vào lúc đó, tôi đi dến thành tàu và nhảy ùm xuống biển.
Một đợt sóng trùm qua đầu tôi, nhận tôi chìm sâu, chìm sâu xuống nước. Con tàu dường như khá xa tôi khi tôi trồi đầu lên. Tôi không thể lội vì tôi mang một cái túi nặng. Do vậy tôi buông tay bỏ túi, và tôi không trông thấy nó nữa.
Tôi là một người bơi lội giỏi, vì thế ngay khi có dông bão, tôi cũng không sợ. Trên đường lội về bờ, tôi nghĩ đến Ramo. “Tôi sẽ kiếm một cây gậy và đánh nó.” Tôi nghĩ. “Nó là một thằng bé vô cùng tệ hại.”
Sau cùng tôi cũng đến bờ và thấy nó trên bãi cát. Nó đang cầm cây giáo, mặt trông rất thiểu não. Tôi quên đi chuyện cây gậy. Tôi chỉ quỳ xuống và ôm chầm lấy nó.
“Tàu có trở lại không chị?” Nó hỏi. Nước mắt tràn đầy đôi mắt nó.
“Sẽ trở lại ngay.” Tôi đáp.
Cái áo da rái cá của tôi ướt nhẹp, trên cổ tôi còn một xâu chuỗi hạt trai. Tất cả các món khác đều mất, cái váy xinh đẹp của tôi bị rách tả tơi.
Bọn chó hoang đang ở trong làng khi chúng tôi trở lại đó. Hầu hết các thức ăn đều bị chúng ăn sạch. Ramo và tôi phải tìm kiếm cật lực mới được một con cá nhỏ. Trong đêm, tiếng tru của chó đánh thức tôi nhiều lần. Vào buổi sáng, chúng tôi chạy về hướng Tây.
Ngày hôm đó, chúng tôi đi tìm thức ăn. Sóng vô quá mạnh, do vậy chúng tôi không thể đi xa biển. Chúng tôi đi nhựt trứng chim ở các dốc đá. Ramo tìm thấy một cái hố nhỏ, nó đâm được mấy con cá nhỏ với một cây giáo của nó. Trông nó rất vui khi nó đem cá về nhà. Ramo mong tôi tha thứ cho nó.
Bọn chó trở lại trong đêm nay khi chúng ngửi thấy mùi cá. Bọn chúng ngồi cho đến sáng trên ngọn đồi nhỏ bên ngoài làng.
Ngày hôm sau, biển êm hơn, do vậy chúng tôi có thể đi bắt cua, bắt ốc ở các khe đá. Lát sau, chúng tôi lên đứng trên bờ dốc đá. Trời rất quang đãng và chúng tôi có thể nhìn rất xa ra biển.
“Hôm nay tàu có trở lại không?” Ramo hỏi.
“Có thể,” tôi đáp nhưng không nghĩ thế.
Đôi mắt đen của Ramo lóe sáng. “Em sẽ buồn nếu nó đến,” nó nói.
“Tại sao?” Tôi hỏi.
“Bởi vì em thích ở đây với chị,” nó đáp. “Không có những người khác, chúng ta ở đây vui hơn. Ngày mai em sẽ đến chỗ chúng ta giấu xuồng. Em sẽ đem một chiếc về đây. Chúng ta có thể sử dụng chúng để đi bắt cá. Và chúng ta có thể đi vòng quanh đảo.”
“Xuồng để trên bờ đá,” tôi nói. “Chúng rất nặng. Em không đủ sức để đem đi đâu.”
Ramo đứng thẳng người và chống mũi giáo xuống đất.
“Em là con trai của Chowig.” Nó nói. “Chị không nhớ à?”
“Chị nhớ,” tôi trả lời. “Nhưng em còn là một đứa bé. Một ngày nào đó, em sẽ đủ sức nâng một chiếc xuồng to.”
“Em là con trai của Chowig,” nó lặp lại. Mắt nó mở to hơn. “Em là con trai của người. Giờ em là thủ lĩnh của Ghalas-at vì Chowig đã không còn nữa.”
“Nhưng trước hết em phải là đàn ông cái đã,” tôi nói. “Em biết cách làm của chúng ta. Chúng ta đều thử thách các chàng trai. Chị sẽ đi tìm các loại cây và các côn trùng cần thiết.”
Mặt Ramo tái xanh. Em biết các sự thử thách chúng tôi sử dụng. Em biết là rất đau đớn.
Tôi vội nói: “Chỉ có đàn ông mới đưa ra các sự thử thách. Nhưng ở đây không có đàn ông. Vậy em không phải chịu sự thử thách nào cả, Thủ lĩnh Ramo.”
Em cười và nói: “Có lẽ em sẽ đổi tên. Em sẽ cố gắng chọn một cái tên hay hơn.”
Tôi nhìn em. Chân và tay em nhỏ như cây sậy.
“Nhưng nó là thủ lĩnh của Ghalas-at.” Tôi nghĩ. “Giờ đây nó sẽ quậy hơn trước.” Tôi muốn ôm em vào trong đôi tay.
Bỗng em nói: “Em đã có tên mới.”
“Tên gì?” Tôi hỏi.
“Em là Thủ lĩnh Tanyositlopai.”
“Cái tên quá dài. Chị không thể thuộc.”
“Chị sẽ thuộc nhanh thôi.” Thủ lĩnh Tanyositlopai nói.
Buổi sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, Ramo đã không còn ở trong lều. Cũng không có em ở bên ngoài. Tôi cho rằng nó đã đi đến chỗ các chiếc xuồng. Tôi run lên khi nghĩ đến những việc hiểm nguy.
Tôi cảm thấy nó sẽ gặp nguy hiểm. Do vậy tôi quyết định đi theo nó.
Nhưng chỉ vài phút, tôi liền đổi ý. Có lẽ tôi nên để cho em nó muốn làm gì thì làm. “Chiếc tàu có thể còn lâu mới trở lại,” tôi nghĩ. “Chỉ còn tôi và Ramo trên đảo, tôi cần sự giúp đỡ của nó. Nó sẽ làm công việc của đàn ông sớm hơn các đứa con trai khác. Nó sẽ lớn lên nhanh chóng.”
Tôi bèn quay trở lại và đi xuống bãi. Nếu như Ramo đem xuồng xuống nước được, nó sẽ đưa xuồng tới bãi. Tôi muốn có mặt ở đây để đón chào nó.
Suốt cả buổi sáng, tôi bắt được nhiều cua ốc và ngắm nhìn mặt trời lên cao trên bầu trời. Ramo không thấy về. Tôi không thấy nó. Tôi lại bắt đầu lo sợ vội vã chạy trở về làng. Ramo không có ở đây. Tôi giấu cua ốc không cho chó ăn, đoạn rời lều. Tôi chạy về hướng Tây Nam của đảo, nơi chúng tôi cất giấu xuồng.
Vừa chạy tôi vừa kêu Ramo. Nó không trả lời, nhưng tôi nghe tiếng chó. Tôi tiếp tục chạy, tiếng chó gầm gừ càng to hơn. Tôi thấy bọn chó ở gần các dốc đá. Rất nhiều chó, chúng đang chạy quanh cái gì đó.
Ramo đang nằm ở đó. Có một vũng máu nhỏ trên mặt đất chung quanh đầu nó. Có những dấu răng sâu ở cổ và những vết cắn trên mình của Ramo. Khi tôi đỡ em lên, em đã chết. Tôi nhìn lên mặt đất và thấy vết chân của em. Những vết chân đó không còn trước khi đến dốc đá. Hai con chó nằm trên mặt đất gần em. Cây giáo của Ramo cắm vào cạnh sườn của một con chó.
Tôi mang Ramo về làng, bọn chó đi theo tôi. Con chó đầu đàn là một con chó to, lông dài, màu xám và mắt vàng. Một lúc sau, cả đàn chạy về hướng Tây, con đầu đàn chạy sau cùng.
Đêm đó tôi không ngủ, ngồi bên xác của Ramo. Tôi hứa với lòng: “Một ngày nào đó, tôi sẽ giết hết bọn chó đó. Tôi sẽ giết tất cả chó trên đảo. Tôi phải tính toán sao cho làm được điều đó.”
Nhưng gần suốt cả đêm, tôi nghĩ đến Ramo, em tôi.
CHƯƠNG IV
MỘT MÌNH TRÊN HẢI ĐẢO
Sau đó là những ngày đau buồn, nhưng tôi không nhớ rõ là bao lâu. Làng giờ đây là nơi hoang vắng, lạnh lẽo. Tôi nhớ đến cái chết. Tôi nhớ những người vượt qua biển cả. Tôi quyết định không sống trong nhà tôi nữa.
Tôi đưa ngọn lửa kề vách nhà tôi, ngôi nhà cháy đổ sụp xuống. Sau đó tôi đốt ngôi nhà kế bên và kế bên. Ngày hôm đó ngôi làng Ghalas-at bị hủy diệt.
Ngôi nhà mới của tôi nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần ở phía Tây. Ở nơi đây có hai cái cây nhỏ và một tảng đá phẳng cao. Phía sau tảng đá lá một hốc đá, gió không thể lọt vào. Nơi này rất cao, chó không thể lên tới. Tôi không biết bây giờ chúng ở nơi đâu.
Tôi nhớ lời tự nguyện của mình. “Bọn chúng sẽ tìm được nơi ở của mình,” tôi nghĩ. “Bọn chúng sẽ tấn công mình vào một ngày nào đó. Mình sẽ giết con chó đầu đàn và cả bọn chúng.” Nhưng tôi phải tìm ra cách để làm chuyện đó.
Luật ở Ghalas-at không cho phép phụ nữ làm giáo. Nhưng giờ tôi cần phải tự vệ. Tôi đi tìm trong các căn nhà bị cháy và trong các chiếc xuồng. Tôi không tìm được cây giáo nào.
Sau đó tôi nhớ đến các rương bọn Aleut mang lên đảo. Không biết bọn chúng có mang theo chúng hay không? Hay nó còn nằm đâu đó trrên bãi? Tôi đứng nhìn chung quanh chỗ Orlov đứng trước khi xảy ra cuộc chiến. Cát rất mềm, do vậy tôi dùng cây gậy chọc nhiều chỗ. Có thể cơn bão đã lấp cát lên rương.
Bỗng cây giáo tôi chạm phải một cái gì cưng cứng. Tôi dùng tay cào đất qua một bên. Lòi ra nắp rương, tôi giở nắp rương ra. Rương chứa đầy hạt ngọc trai đủ màu sắc. Tôi quên phứt câu chuyện cây giáo khi trông thấy các viên ngọc lóng lánh, đẹp đẽ đó. Tôi lấy một xâu chuỗi ngọc dài nhất lên, cảm thấy mình như phu nhân của một vị tù trưởng.
Bỗng tôi nhớ những người đàn ông đã nói rằng tôi không thể mang những vật đẹp đẽ này. Tôi lấy các xâu chuỗi ra khỏi rương. Tôi bước ra ngoài sóng biển và ném các xâu chuỗi xuống biển sâu.
Không có đầu mũi giáo trong rương. Tôi đóng rương lại và lấy cát lấp lên.
Một đêm, bọn chó đến dưới chân đồi chỗ tôi ở. Chúng không thể trông thấy tôi trên tảng đá và chúng không thể leo lên chỗ tôi. Nhưng chúng biết tôi ở gần đâu đó. Tôi nghe tiếng bọn chúng cho đến khi trời rạng sáng.
Tôi nhớ đến luật lệ của chúng tôi. Tôi cần phải tự vệ, nhưng vì là đàn bà, tôi không thể làm giáo. Cha tôi tỏ ra rất minh bạch trong vấn đề này. Ông nói: “Nếu đàn bà làm ra cây giáo, ả không thể dùng nó. Đến lúc ả cần, nó sẽ gãy.” Không người đàn bà nào của bộ tộc chúng tôi làm ra một cây giáo. Không ai biết lời đe dọa “đất sẽ sụp dưới chân, đá sẽ rơi trên đầu” là đúng hay sai.
Nhưng sự sống của tôi bị đe dọa. Bọn chó đã giết Ramo, giờ chúng muốn giết tôi!
Đêm hôm qua, bọn chó lại đến. Tôi quyết định hủy bỏ luật lệ của làng. Nhưng con tim tôi tràn đầy nổi sợ.
Tôi cần một cây giáo cứng, một cây cung và một số tên… Tôi quyết định làm cây giáo trước, sau đó đến cung và tên.
Tôi lấy cây làm mũi giáo, đoạn cột thật chặt vào một cây gậy dài, thật thẳng. Làm cung và tên khó hơn nhiều. Tôi phải đi tìm kiếm khắp nơi mới có thể tìm được loại cây phù hợp để làm cung. Về tên, tôi cần lông chim và đá để làm đầu mũi tên.
Thời gian trước, tôi thường nhìn cha tôi làm những thứ vũ khí này, nhưng tôi không bao giờ ngồi quá gần. Tôi đã không nghĩ đó là việc làm cần cho phụ nữ. Tôi phải mài đá cho nhọn và cột lông chim vào đuôi mũi tên.
Tôi làm trong nhiều ngày. Sau cùng tôi đã có được một cây cung và nhiều mũi tên để tôi có thể dùng. Sau đó tôi không bao giờ rời khỏi chỗ ở mà không mang chúng theo. Tôi tập bắn cung và sử dụng giáo.
Tôi mang tảo khô từ bãi về chỗ ở để lám một cái giường êm ái. Tôi thích ngủ nơi đây dưới ánh sáng các vì sao. Tôi không cần phải dậy sớm vào buổi sáng. Tôi có thể nhìn chim biển lượn trên mặt nước và các con rái cá đùa giỡn trên tảo. Rái cá đã trở lại, giờ đây chúng cũng nhiều như trước đây.
Mỗi khi tôi nằm trên tảng đá, tôi nghĩ trước hết đến chiếc tàu của những người da trắng. Một buổi sáng việc làm đầu tiên của tôi là nhìn ra biển. Tôi mong con tàu trở lại. Và mỗi buổi sáng tôi thấy chim biển bay trên các ngọn sóng. Mùa đông chấm dứt và mùa xuân đến. Rồi mùa đông lại qua đi, nhưng con tàu không đến.
Mùa hạ là mùa đẹp nhất ở Đảo Cá Heo Xanh. Trời ấm áp biển dịu êm. Mỗi buổi sáng tôi từ tảng đá nhìn ra hướng Đông. Đó là nơi dân làng tôi ở. Và chiếc tàu sẽ đến từ nơi đó. Có một lần tôi tưởng mình trông thấy chiếc tàu. Nhưng tôi đã lầm. Đó là con cá voi xám.
Thời tiết thay đổi, và con bão mùa đông đầu tiên đã dập tắt hi vọng của tôi. Tôi cảm thấy mình rất cô đơn. Tôi biết con tàu sẽ không đến vào mùa đông. Tôi cảm thấy mình rất đau khổ. Và những cơ ác mộng đã đánh thức tôi dậy lúc đêm khuya.
Những trận gió dữ dội đà tràn vào đảo từ phương Bắc, tôi phải chuyển cái giường của tôi xuống chân tảng đá. Tôi gom nhặt rất nhiều củi để luôn có lửa sưởi ấm, để bảo vệ lúc về đêm. Vào cái đêm đầu tiên, bọn chó thấy lửa và tiến lại gần. Tôi dùng cung tên giết chết ba con, nhưng không có con đầu đàn. Bọn chó sau đó không đến nữa.
Sau cơn dông bão, tôi đi đến chỗ các chiếc xuồng được cất giấu. Thức ăn khô trên xuồng còn ăn được, tôi chỉ phải thay nước. Ý của tôi là phải rời đảo. “Mình sẽ lấy một chiếc xuồng và đi về hướng đông.” Tôi nghĩ: “Ông Kimki đã một mình vượt qua con biển rộng. Tôi cảm thấy mình không sợ.”
Tôi làm một con đường với những viên đá nhỏ và rong rêu. Trên con đường đó, tôi đẩy chiếc xuồng nhỏ nhất ra đến biển.
Tôi chèo xuồng rời khỏi Ghalas-at vào lúc xế trưa. Hòn đảo giờ giống như một đám mây nhỏ nằm trên mặt nước. Tôi tiếp tục chèo cho đến tối.
Khi tôi nhìn lại, tôi không còn thấy Đảo Cá Heo Xanh. Chỉ một mình tôi trên biển. Xuồng tiếp tục trồi lên, sụp xuống trong sóng biển rập rờn. Thế là tôi bắt đầu cảm thấy sợ.
Đêm đến, biển trông tối mờ tối mịt. Biển có cùng màu với bầu trời. Nhưng có một ngôi sao chiếu sáng bên trên. Tôi biết ngôi sao đó và cảm thấy yên dạ hơn. Đó là ngôi sao Bắc Đẩu, nó sẽ giúp tôi đi đúng hướng. Tôi giữ cho nó luôn ở bên trái tôi, tôi tiếp tục chèo.
Xuồng bỗng nhiên có nước. Tôi tát hết nước ra ngoài, và cảm thấy ván xuồng ươn ướt. Giữa hai tấm ván ghép lại, tôi phát hiện có một cái khe nhỏ, dài, chính từ đây nước chảy vào. Tôi xé váy tôi một mảnh nhỏ rồi nhét lại.
Đến sáng vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Một cái khe mới to hơn xuất hiện giữa những tấm ván. Và tôi phải xé cái váy mảnh to hơn để nhét lại, không cho nước chảy vào. Giờ tôi hiểu các tấm ván xuồng rất yếu ớt. Chiếc xuồng đang ở trong tình trạng nguy hiểm.
Tôi đang ở vào ngày thứ hai của chuyến đi. Nước tiếp tục chui vào xuồng. Tôi bỗng nghĩ đến hòn đảo hoang và mấy con chó. Tôi không muốn lại trông thấy bọn chúng. Nhưng các lỗ hổng càng lúc càng to hơn. “Chiếc xuồng sẽ vỡ tung!” Tôi nghĩ và tôi biết tôi không thể tiếp tục cuộc hành trình. Tôi buồn bã quay xuồng chèo về hướng đảo.
Cả một gia đình cá heo lội quanh chiếc xuồng. Cá heo luôn là dấu hiệu tốt lành của biển cả. Chúng cũng là bạn của tôi và tôi không cảm thấy cô đơn. Chúng quanh quẩn bên tôi cho đến sẫm tối, sau đó chúng lội về hướng tây. Tôi có thể thấy ánh sáng mặt trời chiều trên cái lưng ươn ướt của bọn chúng lâu thật lâu. Đêm đến đầu óc của tôi còn trông thấy lũ cá heo. Tôi nghĩ các con thú thân thuộc đó cứu lấy tôi.
Đêm thật dài, và tôi cảm thấy mệt đuối. Có hai lần tôi suýt ngủ gục. Các lỗ hổng giữa các tấm ván càng rộng ra. Tôi phải làm việc cật lực mới tát nước ra hết được. Sự sợ hãi của tôi tăng lên hơn bao giờ hết. Nhưng sau cùng mặt trời đã lên, bình minh rạng rỡ. Xa xa trước mặt tôi thấp thoáng bóng dáng của hòn đảo.
Tôi đến đảo vào giữa trưa, sóng đưa chiếc xuồng vào bờ. Tôi ngã xuống khi bước ra khỏi xuồng. Tôi sung sướng nằm trên cát khô. Tôi quá mệt mỏi để có thể nghĩ đến mấy con chó. Liền sau đó tôi ngủ thiếp đi.