Con Đường Mây Trắng - Chương 1 - Phần 4

GẶP GỠ ĐẠO SƯ

Tôi vui mừng biết bao khi được gặp hiện thân của
ý niệm xa vời đó thật sự ở ngay trước mắt mình: một con người, mà bất cứ những
ai được tiếp xúc đều được học hỏi, chỉ sự hiện diện của ông đã gây ấn tượng và
đúng như kinh sách thường nói, hãy chứng thực ngay tại đây và bây giờ như trong
những ngày Phật còn tại thế.

Số phận đã dành cho tôi một cơ hội lớn lao được
gặp một người như thế, được tiếp xúc sống động với cái tâm thức đã tạo nên tâm
chư Phật và các vị thánh nhân trong quá khứ cũng như sẽ tạo nên tâm các vị khác
trong tương lai.

Tôi được gặp vị đạo sư sớm hơn mình chờ đợi. Lần
gặp đó diễn ra trong một phòng thờ nhỏ tại lầu trên của Labrang (tòa nhà chính
của tu viện), nơi ở của vị đạo sư mỗi khi ông lưu lại Yi-Gah Tschor-Ling; và
những lúc ông vắng mặt, nơi đó vẫn được xem là chốn thiêng liêng không ai được
ngồi, dù chỉ rất ngắn và lúc ông vắng mặt thì được thay đổi bởi bộ áo lễ dựng
đứng, biểu hiện sự hiện diện tâm linh của ông. Vì nơi đây là chỗ ông hằng ngày
quán tưởng và trải qua vô số giờ thiền định. Ngay ban đêm ông cũng ngồi thiền
định trong thế liên hoa. Chỗ ngồi này không cho phép ông nằm hay duỗi chân. Đó
là một khung hình vuông, trong đó có nhiều gối cứng. Phía dưới chỗ ngồi có
đường viền che ba phía, phía thứ tư là lưng dựa có trang trí bằng bánh xe chính
pháp và các biểu tượng khác. Phía trên chỗ ngồi là hình bầu trời với bảy màu,
tượng trưng cho hào quang của Phật.

Toàn bộ gian phòng này toát ra không khí của an
bình và vẻ đẹp, là hơi thở của một nhân cách, của sự hòa hợp không những về mặt
thiện mỹ mà sự bày tỏ tự nhiên của một cuộc sống hoàn toàn hướng về tâm linh.
Ngoài ra các bức tranh tôn giáo đẹp chi li kỹ lưỡng, lòng trong khuôn đem từ
Trung Quốc qua, hòa hợp với màu sắc thanh nhã của loại thảm Tây tạng bọc các
ghế ngồi xung quanh bàn nhỏ uống trà. Phía kia của gian phòng là các bức tượng
thếp vàng với trình độ thủ công xuất sắc để trong các lồng kính, xung quanh
khắc họa hình rồng và các hình nổi khác. Phần dưới của bệ thờ gồm có nhiều cửa,
nhô ra một chút để có thể đặt trên đó chén đựng nước và đèn dầu, tất cả đều
bằng bạc. Trong phòng không có một vật gì mà không mang biểu tượng hay chức
năng của một đời sống tâm linh và cũng không có gì gọi là của riêng của bậc đạo
sư [11]. Sau khi
ông đã rời bỏ thân người lần này, theo chỉ thị của ông, người ta cho tôi đặc
quyền vô song là được ở trong phòng này – và tôi thấy lại tất cả những gì như
hồi ông còn hiện diện. Ngay cả một tách trà bằng ngọc để trên một đĩa bạc mà
mỗi ngày người ta còn rót trà nóng cũng như các pháp khí khác như kim cương sử,
chuông, bình bát và các thứ khác cũng còn nằm tại chỗ cũ, trước chỗ ngồi của
ông.

[11] Khi rời tu viện đi nơi khác
thường ông chỉ mang theo một số thật ít đồ dùng. Đối với ông, hang động cũng tốt
như lâu đài, lâu đài cũng như hang động. Giàu sang và tiện nghi vô nghĩa đối với
ông, thế nhưng nếu cần ông cũng không ngại sử dụng. Ông không bám giữ vào tiện
nghi lẫn đời sống khổ hạnh vì biết rõ, danh hiệu của khổ hạnh cũng chướng ngại
như danh hiệu của của cải. Khi nhận được tặng phẩm của nhiều người, thường ông
tặng lại kẻ cần thiết hay dùng để sửa đền thờ, tu viện, thư viện… (TG)
.

Nhưng tất cả chi tiết này đều hòa nhập trong một
ấn tượng chung của an bình và hòa hợp của ngày đầu tiên đó. Tôi cúi mình trước
đạo sư và ông đặt hai tay trên đầu tôi: hai bàn tay mà chỉ cần đặt nhẹ lên đầu
là đã có một luồng
điện của sự an lạc chạy khắp người và phủ khắp tôi, để tất cả những gì tôi định
nói hay hỏi ông bỗng biến mất khỏi tâm mình như sương mù dưới ánh mặt trời. Chỉ
riêng sự có mặt của con người này đã đủ để phá tan mọi sự thể, biến nó thành
không – như bóng đêm gặp ánh sáng.

Khi ông ngồi trước mắt tôi, dưới hình vẽ bầu
trời, trong bộ áo đơn giản đỏ sậm của một tu sĩ Tây Tạng, thật khó đoán tuổi
ông, dù lúc đó chắc ông không dưới tuổi sáu mươi lăm. Tóc cạo ngắn của ông vẫn còn đen và thân ông
khỏe mạnh, thẳng người. Khuôn mặt ông cho thấy một tính cách mạnh mẽ, nhưng cái
nhìn thân thiện và khóe miệng hướng lên hầu như sắp mỉm cười làm tôi thấy tin
tưởng.

Điều đáng lạ lùng là không ai chụp hình được Tomo Géché
Rimpotsché, mặc dù trong thời gian ông đi hành hương tại các thánh địa Ấn Độ,
nhiều người đã lén chụp hình vì biết ông không đồng ý. Kết quả luôn luôn như
nhau: hoặc là người ta thấy phim không ảnh hay hình mờ hẳn đi, hay là có điều
gì xảy ra. Dù nguyên nhân thế nào thì khuôn mặt của vị đạo sư không thể ghi lại
trên phim. Ông từ chối mọi sự thần
thánh hóa và không muốn con người mình là đối tượng của một sự tôn thờ.

Trong ngày nhận tôi làm đệ tử, ông nói: “Nếu con
muốn ta là thầy thì hãy đừng nhìn vào cá nhân ta, vì mỗi một cá nhân đều có hạn
cuộc và bao lâu ta còn quan sát thấy sự thiếu trọn vẹn ở một người khác, thì
bấy lâu ta còn tự đánh mất khả năng học hỏi từ người đó. Hãy nhớ rằng, mỗi loài
đều mang trong mình tia sáng của Phật quả, thế nhưng khi ta chú ý đến sai trái
của người khác thì ta tự đánh mất ánh sáng toát ra từ người đó, thông qua người
đó mà đến với ta, dù cường độ của nó có khác nhau giữa người này người kia.”

Hiển nhiên khi tìm một vị đạo sư ta phải tìm
người đáng tin cậy; nhưng khi đã tìm ra người đó, ta phải xem tất cả những gì
mà thầy dạy cho ta đều là ơn phước của Phật cả. Ta không xem lời nói của thầy
từ thầy mà ra, mà là tiếng của Phật, đáng được tôn quí. Khi con cúi đầu trước
thầy, không phải con tôn thờ xác thân có hạn mà thờ Phật, tôn quí vị đạo sư
vĩnh cửu, người đã truyền chánh pháp thông qua ngôn từ của một người thầy mang
nhân trạng, đó là một đơn vị sinh động trong một chuỗi những vị nhập dòng,
người truyền pháp từ thầy qua trò, từ thuở của Thích-Ca Mâu-Ni cho đến ngày hôm
nay. Những người truyền giáo pháp chính là bình chứa và nếu họ thông hiểu và tự
chứng thực thì họ chính là hiện thân của pháp.

Cái làm nên vị đạo sư không phải là trình độ tâm
linh, chẳng phải thân thể, chẳng phải ngôn từ mà chính là thực tại, cái tuệ
giác, thứ ánh sáng nằm trong người đó. Người đó càng chứa nhiều thứ đó, khi thứ
đó càng sinh động, thì hình dạng lẫn hành động người đó càng phù hợp với nó,
người học trò càng dễ nhận ra vị Phật trong thầy mình. Vì thế mà học trò hết
sức cẩn trọng trong việc lựa đạo sư cho mình; cũng như thế, mà thầy lựa trò cho mình.

Thế nhưng ta không bao giờ quên rằng, trong mỗi
con người có một tâm bồ đề luôn luôn hiện diện (vì thế mà tôi hay gọi “tia
chớp” của tâm giác ngộ thay vì gọi tư tưởng giác ngộ, tia chớp đó sinh ra khi
tiềm năng này trở thành ý thức) và chỉ sự mù quáng của chính ta ngăn trở mình
nhận ra nó. Ta càng bất toàn thì càng có khuynh hướng thấy sai trái nơi người
khác, trong lúc những người đã đạt tri kiến sâu xa thì lại thông qua những sai
trái đó mà thấy tự tính của mọi loài khác. Thế nên những người vĩ đại nhất cũng
là người thấy cái linh thể nơi người khác, là người luôn luôn tôn kính cả những
người tầm thường nhất.

Bao lâu ta coi khinh mọi người, xem người là thấp
kém, bấy lâu ta không có tiến bộ. Vì thế khi ta hiểu rằng, mình sống đúng trong
thế giới xứng đáng cho mình, ta sẽ cảm nhận sai trái của mọi người là của chính
mình – dù nó có xuất hiện không trực tiếp từ nơi ta mà ra. Đó chính là nghiệp
của mình phải sống trong thế giới bất toàn này, nó cho cùng thì thế giới này là
do ta tự tạo. Chỉ có thái độ đó mới giúp ta vượt được khó khăn của mình, vì nó
thay sự phủ định vô bổ bằng một năng lực tích cực để tới sự hoàn thiện, nó
không những làm cho ta xứng đáng với một thế giới tốt đẹp hơn, mà còn đưa ta
trở thành người tạo tác cho sự sáng tạo đó”.

Sau đó vị đạo sư tiếp tục giải thích các điều
kiện tâm linh tiên quyết và các phép thiền định để tạo nên được thái độ tích
cực và sáng tạo đó. Lòng từ bi thương người – không phải chỉ biết đau khổ theo
người mà cũng biết vui sướng cùng người – đối với tất cả loài hữu tình, theo
ông là sự chuẩn bị đầu tiên cho phép thiền định vì nó sẽ loại bỏ những giới hạn
thuộc về cảm tính và tư duy do ta tự tạo. Muốn được thái độ này ta phải biết
xem mọi loài là mẹ đẻ hay con ruột của chính mình – trong vũ trụ này không có
sinh vật nào mà không từng là bà con ruột thịt với ta trong vô lượng kiếp. Để
biết quý từng khoảnh khắc của đời sống, ta cần luôn tâm niệm rằng, mỗi một chớp
mắt có thể là giây phút cuối của đời mình, không dễ gì có lại. Ngoài ra ông chỉ
thêm rằng, những gì ta biết về thiền định qua sách vở không hề so sánh được với
sự chứng thực trực tiếp và với tác dụng tâm linh của đạo sư, miễn là ta biết
thành tâm rộng mở tấm lòng với ông.

Vì thế mà trong Bồ Đ hành kinh [12]có đoạn:
“Khi tư tưởng giác ngộ đã bắt rễ thì kẻ khổ đau bị trói buộc trong tù ngục của
đời sống trở thành con đẻ của sự giác ngộ, được trời và người tôn kính. Khi tư
tưởng này đã chiếm thân bất tịnh của người đó thì nó sẽ biến thân đó thành viên
ngọc cao quý của một vị Phật. Vì thế hãy tới với thứ nước cam lộ đó, nó có thể chuyển hóa tuyệt
diệu và mang tên là tâm bồ đề”.

[12] Bohicaryavatara, tác
phẩm của Tịch Thiên (Santideva), người sống khoảng thế kỷ thứ
bảy, tám sau Công nguyên. Tác
phẩm này rất phổ biến trong Phật giáo Tây Tạng (ND)
.

ĐIỂM ĐẠO

Thật may mắn cho tôi không những được chuẩn bị
bởi sự dạy dỗ kiên trì của Katschenla mà còn được một người bạn là một vị lạt
ma Mông Cổ biết Anh ngữ, đã giúp tôi học hỏi kinh sách Tây Tạng, bù lại tôi chỉ
cho ông tiếng Pali và thêm Anh văn. Ông đã học tập hai mươi năm trong một tu
viện đại học gần Lhasa, đạt được học vị Géché và về sau cùng làm việc với
nhà Đông phương học Stael-Holstein tại Bắc Kinh. Tên ông là Tubden Scherab,
nhưng thường ông được gọi là “Géchéla”.

Nhờ ông làm thông dịch mà tôi không gặp khó khăn
gì để hiểu giáo pháp của đạo sư và trao đổi riêng với ông, mặc dù – tôi sớm
biết – vị đạo sư không cần đến thông dịch viên vì ông đọc tư tưởng của tôi như
đọc một cuốn sách đang mở. Vì biết tôi đã dành phần lớn thời gian trưởng thành
của mình để nghiên cứu Phật giáo, ông không phí giờ mà giảng cho tôi những giáo
lý tổng quát nữa mà đến ngay với đề tài của phép tu thiền định, điều đối với
ông hệ trọng hơn mọi ý kiến thức lý thuyết. Đối với tôi, điều này từ xưa đến nay
chính là khía cạnh chủ yếu của đạo Phật cũng như đời sống tôn giáo.

Tới nay thì tôi dựa vào trực giác của riêng mình
và các khai thị trong hệ Pali về việc hành trì thiền định, nhất là kinh Tứ
Niệm Xứ
[13] (thời đó
được phổ biến không phải theo phương pháp mới mà theo cách đơn điệu của trường
phái Mynamar). Vì thế mà tôi hết sức quan tâm được đưa vào các phương pháp
truyền thống, từng bước đi sâu vào sự chứng thực thiền định.

[13] Satipatthana-Sutra.

Trong ngày mà Tomo Géché Rimpotsché chính thức
nhận tôi làm đệ tử và quán đỉnh cho tôi bằng một buổi lễ điểm đạo, trong đó tôi
nhận được thần chú đầu tiên của mình, thì một điều quan trọng trở nên rõ ràng,
điều mà tôi chưa có trong cuộc đời tôn giáo của mình. Đó là một biến cố tâm
linh, nó không cần bất cứ triết lý hay lý luận phải trái gì vì nó không hề dựa
trên sự hiểu biết lý thuyết mà là những sự thực xảy ra và sự chứng nghiệm trực
tiếp và nhờ đó mà tôi chắc rằng, mục đích mình theo đuổi không phải là một ý
niệm trừu tượng do đầu óc hư cấu ra, mà là tình trạng ý thức có thể đạt tới
thực, một thực tại có thể nắm bắt.

Thế nhưng biến cố đã cho thấy thực tại có thể nắm
bắt này lại quá tinh tế, vượt qua mọi so sánh, nên sự mô tả quá trình điểm đạo
và những biến cố trong đó sẽ hết sức thiếu sót như ta tìm cách mô tả cảm thụ âm
nhạc bằng ngôn từ. Đúng là sự mô tả chi tiết kỹ thuật và những cái gọi là
“khách quan” sẽ hủy hoại cái chủ yếu, tính chất xúc cảm và nội dung đích thực
của sự cảm thụ, vì sự “cảm xúc” trong nghĩa đích thực chính là cái làm tâm ta
lay động, đào sâu, đánh thức nó, đưa lên một đời sống cao hơn, tới một khả năng
nhận biết rộng hơn. Biểu hiện cao nhất của điều này là sự giác ngộ, sự chứng
thực tự tính ánh sáng của ta, đồng thời đưa tới sự vận động tự tại, vô ngại,
thanh tịnh nhưng lại bất động của tâm là vô minh – dù chúng ta do loại tư tưởng
khái niệm, tham muốn hay bám giữ tạo ra. Sự bất động lại không đồng nghĩa với
cái dừng chết, không có nghĩa kềm lại tư tưởng mà là dòng tâm thức không bị cản
trở bởi những khái niệm tự tạo và ước muốn ích kỷ hay dòng chảy tự nhiên của nó
bị chia cắt ra từng phần với hy vọng phân tích tìm hiểu nó. Điều này không có
nghĩa là ta phải từ bỏ mọi tư duy khái niệm – đó là điều bất khả – mà đừng lạc
lối trong đó để trở thành nô lệ của nó.

Cũng như từng âm thanh của một tiết điệu tự nó
không mang ý nghĩa gì, nó chỉ có nghĩa trong mối liên hệ với những âm trước nó
và sau nó – chúng là thời khắc của một sự vận động đầy ý nghĩa sinh động, không
bị ngăn chận, những âm thanh đó cũng như bản thân tiết điệu không bị phá hủy; cũng
tương tự như thế mà ta không thể tách những khái niệm hay biến cố đơn lẻ ra
khỏi khung cảnh hay dòng chảy của tư tưởng hay cảm xúc được biến cố của lễ điểm
đạo, tìm cách hiểu nó bằng khái niệm và suy luận thì ta chỉ có những phần tử
chết trong tay chứ không phải “sợi dây tâm thức”, cái làm cho chúng có sức
sống. “Sợi dây tâm thức’ này được người Tây Tạng gọi là dam-ts'hig.
Đó là mối liên hệ nội tại giữa thầy với trò (cũng như mối liên hệ giữa những
cái thiêng liêng và con người – dù nó xuất hiện dưới bất kỳ dạng nào), biểu thị
sự vận động nội tại và chứng thực mà trên đó mối liên hệ được xây dựng.

Quá trình của lễ điểm đạo không chứa đựng điều gì
bí ẩn, nhưng nó không thể trao truyền vì mỗi người phải tự nếm trải. Khi cố
trình bày những điều vượt quá ngôn từ, ta chỉ kéo những điều thiêng liêng hạ
xuống mức tầm thường, đánh mất cái “sợi dây” đó và không lợi gì cho ai. Với lời
nói, ta chỉ hủy phá cái nhiệm mầu, cái thanh tịnh và sự hồn nhiên của tâm tư
nội tại mình cũng như làm mất lòng kính sợ vốn là chìa khóa cổng đền cho sự mở
hiện. Như bí ẩn của tình yêu chỉ có thể nẩy nở khi vắng bóng đám đông cũng như
những kẻ yêu nhau không ai thảo luận tình yêu với người ngoài cuộc; thì cũng
như thế, sự kỳ diệu của chuyển hóa nội tâm chỉ xảy ra khi những năn g lực bí ẩn
của nó nằm ngoài mắt nhìn tầm thường và phiếm luận vô bổ của thiên hạ.

Điều có thể trao truyền được chỉ là kinh nghiệm
thuộc về lĩnh vực của ý thức thông thường; và ngoài ra là kết quả và kết luận
của những kinh nghiệm đó hay là những giáo pháp tập hợp những chứng thực qua
nhiều thế hệ hay qua các vị thầy. Trong một tác phẩm trước đây [14] tôi đã cố gắng nói đến điều
này và trong tập sách này tôi cũng sẽ nói đến về những ấn tượng cũng như những
gì trải qua về các con người tạo ảnh hưởng quyết định lên đời sống tâm linh của
mình.

[14] Govida, Grundlagen
tibetischer Mystik (Cơ sở đạo học Tây Tạng), Rascher Zurich 1966.

Trong những con người đó thì Tomo Géché
Rimpotsché là vĩ đại nhất. Mối dây liên hệ sinh ra trong lễ điểm đạo lần đầu và
cũng là lần quan trọng nhất đối với tôi chính là nguồn suối của năng lực và sự
cảm hứng. Vị đạo sư này đã giúp tôi bằng sự hiện diện của ông, ngay cả sau khi
ông mất; hồi đó tôi không biết rõ sự giúp đỡ này cũng như không biết rằng ông
là một trong những vị đạo sư Tây Tạng vĩ đại và được trọng vọng nhất và đối với
hàng triệu người, tên ông đồng nghĩa với sự thực chứng cao nhất của Phật đạo.

Trong chừng mức nhất định thì cái không biết này
lại thuận lợi cho tôi vì nó cho phép tôi, thông qua kinh nghiệm của chính mình mà quan sát tính
cách phi thường của vị đạo sư một cách tự nhiên và không bị ý kiến của người
khác chi phối; và tự mình biết rằng ông có thần thông như các vị thánh nhân
trong quá khứ thường có.

Lần nọ, hoàn toàn tình cờ tôi cùng với người bạn
Mông Cổ ở bên ông và đang nói chuyện về một số khía cạnh của thiền định. Những câu hỏi của chúng tôi xoay quanh về các vấn
đề nảy sinh trong các phép tu hằng ngày. Trong câu chuyện, vì người bạn tôi nói
về các vấn đề riêng tư và vì không tham gia câu chuyện, tôi nghĩ ngợi về các
điều khác. Lúc đó trong tâm nổi lên sự tiếc nuối là ngày ra đi của vị đạo sư
không còn xa nữa, ông phải trở về tu viện chính, bên kia biên giới Tây Tạng và
có thể nhiều năm sẽ trôi qua trước khi tôi có dịp ngồi lại dưới chân ông. Như
theo một sức mạnh vô hình, tâm tôi nói thầm: “Hãy cho con một dấu hiệu rõ rệt
của sợi dây nối con với thầy, cho con cái gì vượt lên mọi lời, nhắc nhở con nhớ
đến mục đích cao cả va đức hạnh của thầy: dù đó là một tượng Phật nhỏ được thầy
ban phước hay bất cứ cái gì…” Chưa nói thầm hết ý thì vị đạo sư đã bất ngờ cắt
câu chuyện, quay về phía tôi nói: “Trước khi chia tay, ta sẽ cho con một tượng
Phật nhỏ làm kỷ niệm”.

Tôi choáng người, không dủ sức nói lời cảm ơn –
phần vì vui mừng, phần vì xấu hổ mình đã ngắt câu chuyện của vị đạo sư chỉ vì ý
nghĩ khẩn cầu và hầu như có tính chất thử thách. Nếu biết ông có thể nghe tư
tưởng của tôi như lời nói bình thường, tôi đã không bao giờ dám ngắt câu chuyện
của thầy, không hề muốn dùng ý nói chuyện với ông.

Ngay cả lúc đang bận chuyện khác, ông vẫn phản
ứng về tư tưởng của tôi, điều đó làm tôi nghĩ rằng không những ông học được ý
tưởng người khác mà có cái khả năng mà kinh sách Phật giáo gọi là “thiên nhĩ”,
tức là nghe tất cả những tư tưởng của người khác hướng về mình. Và ngoài ra,
tôi nói thầm những lời đó không bằng tiếng Tây Tạng, tôi nghĩ bằng ngôn ngữ của
tôi, thế nên không phải ngôn ngữ mà ý nghĩa của ngôn ngữ, đó là điều mà vị đạo
sư nghe thấy.

Trong ngày chia tay, dĩ nhiên là tôi rất hồi hộp.
Từ lần đó đến nay, nhiều tuần đã trôi qua mà đạo sư không nhắc nhở gì lại điều
mình hứa và tất nhiên tôi không dám hỏi gì về điều đó và tin rằng ông cũng nhớ
đến như mình. Có thể ông thử lòng kiên nhẫn và tin tưởng của mình chăng. Điều
này làm tôi càng nín lặng.

Nhưng khi vị đạo sư bị vô số người cần đến trong
những ngày cuối cùng của ông tại Yi-Gah-Tscho-Ling, những kẻ đi từ xa đến xin
gặp để được ban phước thì tôi không bỏ được lo ngại liệu lời xin của mình đã bị
quên lãng đi không, có gì làm trở ngại không.

Vì thế mà tôi ngạc nhiên và vui sướng xiết bao
khi phút chia tay ông trao cho tôi – trước khi tôi kịp nói điều gì – một tượng
Phật Thích-Ca Mâu-Ni nhỏ nạm vàng, trang trí đẹp, làm bằng đát và cho tôi hay
rằng, ông đã giữ nó trong tay lúc thiền định hàng ngày.

Tới bây giờ tôi mới ý thức được sự cao quý của
tặng vật đó và lý do tại sao bây giờ tôi mới biết; và khi nhận nó trong tay,
tôi phải dằn lòng lắm mới giữ được nước mắt. Không nói gì được tôi nghiêng mình
lặng thinh, tôi thấy tay ông nằm yên trong tay tôi, năng lực của ông tràn khắp
người tôi và cho tôi lòng tin chắc chắn không bao giờ xa ông, dù hàng ngàn dặm
cách ly.

Kể từ ngày đó, tượng Phật trở thành bạn đồng hành
thường xuyên của tôi, nó theo tôi suốt vô số lần trèo đèo tuyết phủ trên
Himalaya và vùng nội địa Tây
Tạng; nó cùng đi với tôi trên những cao nguyên cô độc vùng Tschang Thang và
những bình nguyên mầu mỡ ở miền nam và trung Tây Tạng. Nó đã cứu tôi trong
những năm sau (1948) ra khỏi tình huống khó khăn tại miền tây Tây Tạng, triện
son của nó là bằng cớ tôi là học trò của Tomo Géché Rimpotsché chứ không phải
là điệp viên nước ngoài. Và trong dịp khác, nó làm dịu các người Momade vũ
trang dữ tợn, họ bao vây khách lữ hành chúng tôi và chỉ chịu tha cho khi thấy
phước lành của đạo sư, sau đó lại quay lui cho thêm sữa và bơ với yêu cầu hãy
ban phước cho vợ con và đàn thú của họ.

Còn một điều nữa làm bức tượng nhỏ này thêm quí
báu, đó là nó không phải do ai khác làm ra mà là từ bàn tay của Katschenla,
người hết lòng phụng sự vị đạo sư và là người nối kết tôi với ông.

Trong những năm trước ngày vị đạo sư trở lại
Yi-Gah-Tscho-Ling thì Katschenla không phải chỉ là người bạn mà còn là người
đồng môn với tôi và cứ mỗi khi tôi trở về Yi-Gah-Tscho-Ling để trú ngụ tại tu
viện hay gần nơi đó – tôi lại được ông tiếp đón và lo lắng như một người cha.

Điều này lại càng đặc biệt hơn khi vài năm sau,
một vị tăng trẻ khác được giao nhiệm vụ giữ đền chính, còn Katschenla lo cho
phòng riêng của vị đạo sư và mỗi ngày cúng tế trong bàn thờ tại đó, còn tôi,
như đạo sư muốn, được ở trong phòng riêng thiêng liêng của ông, thì lại được
Katschenla tốt bụng chăm sóc, lại càng cho thêm cảm giác là đạo sư vẫn còn ở
đây, như trong ngày đầu gặp gỡ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3