Con Đường Mây Trắng - Chương 1 - Phần 5
TRÊN ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
“Từ đỉnh tuyết phía đông,
mây trắng vụt lên trời.
Như đám mây đỉnh núi,
hình như đạo sư vươn dậy,
từ trái tim sâu xa.
Quán tưởng lòng từ bi,
sinh niềm tin sâu lắng”
Trước khi định hẳn tại Ghoom (nơi tôi sống trong những năm sau trong một vườn tre gần tu viện) thì mong ước được theo đạo sư mình đến những nơi phủ đầy tuyết trắng trong vùng cấm địa đằng sau chân trời nọ quá to lớn, nên tôi lên đường, theo đường của thương nhân mà đi, tìm đến quê hương của ông.
Mặc dù cũng khá gần cuối năm và biết mình không đi được xa trong mùa này (đó là thu 1932) vì người ta chỉ cho một thời gian lưu trú có hạn; và vì vậy không thể trở lui kịp qua những ngọn đèo trong mùa đông, tôi cũng không từ chối dịp lên đường. Mặc dù ngắn ngày, nhưng ấn tượng của tôi về Tây Tạng trong chuyến du hành thật có ý nghĩa lớn lao: nó như “một tiến sét ái tình”. Từ phút đó trở đi, Tây Tạng là một vùng đất của sự ngưỡng mộ và dù tôi trở lại nơi đây lắm lần nhưng ấn tượng của lần đầu không bao giờ quên, là kỷ niệm đẹp nhất đời tôi.
Chuyến đi thật có nhiều điều kỳ lạ như trong mộng. Mưa, sương và mây đã biến rừng sâu, ghềnh núi, vực thẳm, núi đá thành một thế giới đầy những dạng hình hư ảo, kỳ bí. Những ngọn thác đổ nước từ những đỉnh cao vô hình xuống vực sâu không đò tới đáy. Mây phủ trên cao lẫn dưới chân những đường mòn ngoằn ngoèo, từ đáy sâu tăm tối vọt lên cao rồi lại chìm sâu, nơi này nơi kia hiện lên những cảnh tượng kỳ vĩ đến choáng ngợp rồi lại biến mất ngay như không hề có thực.
Các cây cổ thụ với kích thước vĩ đại hiện ra như những người khổng lồ nhiều tay, râu dài xanh mướt, với cây dại mọc đầy xung quanh, với những tràng hoa xanh nhạt đu đưa giữa những cành cây. Trong những vùng thấp, có nhiều loại lan muôn sắc nở hoa từ thân cành, dưới chân là một vùng cỏ hoa che kín. Mây, đá, cây và thác nước tạo nên một vùng đất hoang đường, nó như được vẽ từ ngọn bút thủy mạc của một họa sĩ Trung Hoa, trong đó đoàn người và ngựa di động như hình nhân tí hon của một bức tranh cuộn tròn dài vô tận.
Rừng sâu rậm rạp, ẩm ướt, nóng hầm hập, đầy vắt và muỗi, trong đó cây dại mọc thành cổ thụ và rừng tre như nổ thành đám pháo hoa xanh mướt, lại rừng đó dần dần nhường chỗ cho miền rừng ôn đới dễ thương, trong đó các loại cây như lấy lại tính cách riêng biệt của mình và hoa tranh nhau với những chùm cây dại trong rừng thưa, để cuối cùng hoa thắng thế, sáng lên một tấm thảm màu xanh vàng, cam hay tím dưới chân các loại thông giỏi chịu mưa gió.
Không bao lâu sau thì cảnh vật này cũng ở lại đàng sau, chúng tôi đi vào một vùng chỉ còn các loại cây thông thấp bé, bên cạnh cỏ dại và rêu, đầy những núi đá khổng lồ, đỉnh phủ tuyết và những hồ xanh ngắt một màu, nằm giữa những đám mây thấp, thỉnh thoảng ánh sáng mặt trời lọt qua cho thấy một cảnh tượng đổi thay giữa ánh sáng và bóng tối. Cảnh vật tưởng chừng trong một trạng thái đổi thay liên tục, hầu như cứ mỗi giây phút nó được tạo thành cảnh mới. Có những cái mà phút trước còn đó, phút sau biến mất và được cái khác thay chỗ.
Và rồi điều kỳ diệu xảy ra, điều này chiếm lấy tôi mỗi khi tôi qua biên giới Tây Tạng: trên đỉnh cao nhất của đèo, nơi mà mây đen cứ tụ hội thì bầu trời lại mở ra như một cảnh ảo thuật, mây tan đi và thế giới hiện ra dưới một bầu trời xanh thẳm trước ánh mắt sửng sốt, trong lúc đó thì mặt trời rực rỡ chiếu sáng sườn núi đầy tuyết làm mắt ta phải hoa lên.
Sau một quang cảnh đầy sương mù và mây đen của vùng Sikkim thì hầu như sức người không đủ thu nhận quá nhiều màu sắc và ánh sáng như thế. Ngay cả bóng mát đậm nhát cũng có một cường độ màu sắc và vài đám mây trắng rải rác trên bầu trời xanh ngắt đang trôi về phía các đỉnh xa chỉ tăng cường thêm cảm giác vô tận và sâu xa của không gian và sức sáng của màu sắc.
Chính trong phút này – đó là lần đầu thấy trọn vùng đất thiêng liêng Tây Tạng – tôi mới rõ kể từ đây mình sẽ đi trên con đường mây trắng này của miền đất kỳ diệu của đạo sư mình, để học thêm sự minh triết của thầy, tìm cảm khái trong sự an bình và vẻ đẹp của vùng này. Tôi biết, kể từ đây mình sẽ luôn luôn được miền đất này của ánh sáng và màu sắc lôi cuốn và sẽ cống hiến đời mình để tìm hiểu tài sản tâm linh của nó.
Như các vị hành hương tiền bối, tôi đi vòng quanh các tháp đá thờ phượng, được trang trí bằng cờ cầu nguyện, được dựng lên tại điểm cao nhất của đèo và cũng là biên giới Tây Tạng, vừa đi vừa thầm đọc các câu thần chú của thầy trao cho, cho thêm một viên đá và đụn đá để tỏ lòng biết ơn số phận đã đưa mình đến đây, để hứa rằng sẽ tiếp tục đi trên con đường đã chọn, và cũng để chúc lành cho những ai sau mình sẽ đến nơi đây. Sau đó tôi bỗng nhớ những dòng chữ khắc họa Trung Hoa, được xem là của vị Phật tương lai Di Lặc, người đã từng là du sĩ đi khắp bốn phương trời: “Ngàn dặm ta đi khắp, Tìm ra đường mây trắng”.
Trên đường xuống lại bình nguyên Tschumbi, lòng tôi đầy niềm an lạc không tả xiết. Chẳng bao lâu thì tuyết trên đèo đã nhường chỗ cho thảm hoa đầy màu và rừng thông vươn lên, trong đó bướm rừng dập dìu trên cánh hoa và chim reo hót tưng bừng. Trong không khí rực sáng của núi rừng, tôi thấy mình nhẹ như chim và không sao kiềm hãm niềm vui mặc dù tôi biết mình sắp qua lại phía bên kia của đèo, sắp xuống đến rừng rậm hừng hực thở khói. Thế nhưng tôi chắc rằng, không sớm thì muộn mình sẽ theo con đường của mây trắng vượt qua mọi chân trời, qua đỉnh nhọn thiêng liêng của ngọn Tschomolhari, trú xứ của nữ thần Dorje Phagmo hầu như đang réo gọi.
Và thật thế, vượt qua bao nhiêu khó khăn không thể tin được – mà khi nhìn lại tôi không thể tin gì khác hơn là tác động của một năng lực đo số mệnh an bài, đổi dời cho tôi, nó đã bày tỏ trong tôi cũng như trong những người khác giúp tôi giải trừ mọi trở ngại – tôi lại lên đường theo đoàn người ngựa để đến những vùng chưa hề biết bên kia rặng Himalaya.
Lần này thì tôi nhắm hướng tây bắc Tây Tạng và đầu năm 1933, trong đoạn đầu của chuyến đi, tôi gia nhập đoàn người, đi từ Yarkand Sarai tại Sriunagar, thủ đô Kashmir để đi Kargil tại Baltistan. Nhà thông thái Ấn Độ Rahula Sankriyayana và là người chuyên nghiên cứu Tây Tạng cùng đi với tôi đến Leh, thủ đô của Tiểu Tây Tạng, ngày xưa gọi là Ladakh, thuộc tiểu quốc Guge của tây bắc Tây Tạng. Tại Leh, chúng tôi chia tay; tôi tiếp tục đi với sự hỗ trợ của hai người Tây Tạng khác mà ngựa của họ mang giúp tôi các hành lý nhỏ nhoi cũng như lương thực cho chuyến đi dài ngày.
Chuyến đi Leh kéo dài cả một tháng trời. Nó tạo cơ hội cho tôi làm quen với khí hậu và tập luyện thân thể bằng cách bắt chước Rahula, tôi ngủ đêm dưới bầu trời không cần che lều. Vật che mưa tuyết của tôi chỉ vỏn vẹn một cái mền dạ, tương đối ít thấm nước mà tôi chỉ cần trải trên loại giường xếp là xong. Rahula (hồi ấy còn là tu sĩ Phật giáo và còn chiến đấu giữ lại một các vô vọng các điều luật không quan trọng lắm của giáo hội Sri-Lanka, cho đến một ngày ông thấy các trách nhiệm khác quan trọng hơn trong đời mình) lúc đó còn xem cái giường xếp này là ít nhiều xa xỉ, cho đến khi chúng tôi phải vượt qua ngọn đèo đầu tiên của dãy Himalaya và rơi đúng vào một cơn bão, lúc đầu chỉ là mưa tuyết và tiếp theo là tuyết đổ mạnh. Sáng hôm sau, khi tôi chui ra khỏi tấm dạ, nó đã nặng hẳn lên vì một lớp tuyết dày, thì không thấy bóng dáng người bạn đồng hành đâu cả; cho tới khi ông co ro, răng đánh lập cập, từ một đống tuyết bò ra. Đã thế, còn thêm từ trưa qua đến bây giờ theo qui định của giáo hội, ông không ăn uống gì cả, mặc dù tôi đã nhắc ông coi chừng rằng hôm nay sợ không có dịp ăn được gì, dù một miếng nhỏ. Đúng, điều đó đã xảy ra vì suốt hai ngày chúng tôi phải lội đường ngập tuyết. Kể từ đó, ông thừa nhận rằng những qui định này dành cho khí hậu ấm áp không thể giữ mãi trong vùng lạnh lẽo hay trong những điều kiện sống khác, và ta, đúng theo tinh thần Phật giáo, không nên chấp vào qui luật và lễ nghi. Chẳng phải chính Phật cũng đã giải phóng đệ tử mình ra khỏi mọi gò bó của qui luật thứ yếu trước khi Người nhập diệt vì để cho đệ tử mình tự giữ lương tâm và tri kiến đó ư?
May thay thời tiết tại Himalaya phần lớn kho ráo và nhiều nắng; phải nói là mặt trời nơi đó còn gắt hơn cả mặt trời ở Ấn Độ, và vì gió lạnh nên người ta ít thấy nóng, cho dù có kem chóng nắng, da vẫn bị lột, môi vẫn sưng và ăn không được, lúc ấy ta mới nhận ra.
Thế nhưng những khó khăn của tuần đầu tiên rồi cũng qua đi. Tôi đã quen với khí hậu và mang một lớp da mới, nâu đen, chịu mưa nắng khi tới Tschang-thang, đất của những hồ màu xanh, của núi màu đồng, của bình nguyên màu lục, của những nương rẫy trải dài mà người Nomade miền bắc sống với đàn trâu, đàn cừu trong những túp lều đen làm bằng lông trâu. Sau khi nghỉ ngơi trong tu viện tại Ladakh tôi ham đi tìm hiểu những vùng nằm bên kia dãy núi tuyết, hồi đó chưa mấy ai khám phá, vùng nằm giữa núi Idus và Karakorum.
Một ngọn đèo cao trên 6000 mét nằm trước mặt chúng tôi. Chúng tôi men theo một thung lũng rộng, đi lên cao dần. Mặt trời từ những tuần này đốt cháy không thương tiếc cả một vùng nương rẫy, mà từ sáng nay nó đã núp sau những đám mây đen nặng nề và những giọt mưa nhẹ va lạnh quất vào mặt. Bỗng nhiên tất cả đều mang một bộ mặt bí ẩn tối tăm và thung lũng dẫn vào bóng tối của các đám mây mà hai bên là đá núi nhe răng, hiện ra với tôi như cổ họng của một con quái vật. Đàn ngựa gõ vó đều đều như chấp nhận số phận, không ai nói một tiếng nào và tôi lo ngại cho đêm sắp tới, liệu sáng hôm sau có qua khỏi ngọn đèo đáng sợ này chăng. Trên cao thế này thì một trận bão tuyết sẽ chấm dứt chuyến du hành.
TU VIỆN ĐÁ
Chiều tối, chúng tôi đến đầu một hẻm núi, nơi đây
chính là chỗ phải bắt đầu leo lên đèo. Tại chân một nhóm đồi đá dựng đứng, đá
xếp ngổn ngang, có một số lều nghèo nàn mà dạng vuông vuông của chúng không
khác bao nhiêu so với những tảng đá đổ. Ngược lại với cảnh đó là vô số những
tháp sơn trắng, có gốc là những Tumlti hay Stupa Ấn Độ (đó là nơi giữ xá lợi
của Phật hay các đệ tử của
Ngài). Phần dưới của tháp hình khối vuông, giữa là hình vòm tròn hay có dạng bình hoa và bên trên là đỉnh nhọn hình nón,
gồm mười ba đĩa tròn chồng lên nhau làm bằng đất đỏ, chúng được che bằng dạng
chiếc dù, mang biểu tượng mặt trời, mặt trăng và lửa.
Hàng triệu tháp như thế nằm rải khắp Tây Tạng.
Nơi đâu có người ở hay đã từng ở là có nó và cũng ở những ngọn đèo hẻo lánh hoặc đường dẫn đến cầu treo (thường
nguy hiểm) hoặc nơi có những tảng đá hình thù kỳ dị trên đường khách lữ hành
qua lại. Số lớn những tháp hiện ra đối với chúng tôi nơi đây như có phép thần cắt
ra từ đá, một phần xem như phố xá điêu tàn của những người tí hon, chúng làm ta
đoán gần đây hẳn phải có tu viện hay thánh địa gì đó. Vì đã từng nghe nói về
một tu viện đá rất cổ nằm trong hẻm núi này, được xây từ thời Liên Hoa Sinh
(thế kỷ thứ tám sau Công
nguyên), nên tôi cứ theo tháp dẫn đường, qua ngõ ngách của những tảng đá to như
những căn nhà hoặc giữa những vách tường dựng đứng mà đi.
Đường đi bắt đầu lên dốc nên chúng tôi đành bỏ
ngựa lại. Nhưng cũng kể từ đây đã thấy có vách cổ và từ những vách đá mọc ra
những nhóm nhà hình khối có ban công gỗ. Hầu như không phân biệt được đâu là núi, đâu là người xây, vì chúng thông với nhau,
tựa do thiên nhiên làm ra.
Với hy vọng tìm chỗ ngủ đêm nay, tôi leo suốt ngõ
ngách vách đá nhưng càng đi, hy vọng của tôi càng giảm. Không nơi nào có dấu
vết sinh vật. Cả loài chó giữ nhà Tây Tạng đáng sợ cũng không, nó luôn luôn sủa
người lạ từ xa đến làng, dù nhà, tu viện hay lều người Nomade, ở đâu cũng thấy
chúng. Tuy vậy vẫn không nên vào trong các tòa nhà xem ra đã hoang vắng này.
Cứ mỗi bên cạnh cổng vào tôi thấy một tháp đá,
trên đỉnh có một đĩa đá phẳng, trong đó có một viên đá tròn. Tôi vừa định hỏi
người đi theo tôi (người kia ở lại phía dưới với ngựa) ý nghĩa của những tháp
đá này thì người đó đã cầm viên đá tròn lên và thả xuống đĩa. Một âm thanh cao
như thủy tinh vỡ vang lên. Thì ra đó là chuông gõ cửa! Một sáng tạo thiên tài!
Lại một lần nữa tôi phải khâm phục tài năng tuyệt diệu của người Tây Tạng, họ
đã làm được những dụng cụ từ những vật liệu đơn giản nhất.
Chúng tôi cho vang lên nhiều tiếng đá nữa nhưng
vô ích! Thế nên chúng tôi leo lên tiếp lên cao và vào đến một cái sân nhỏ nằm
bên cạnh một đường đi bằng gỗ có mái che, phía trước với mặt tiền của một đền
thờ xây trên đá, còn phía kia là một tòa nhà hai tầng với bao lơn mở, trên đó
là hình thù kỳ dị của chóp đá, còn phía kia là một tòa nhà hai tầng với bao lơn
mỏ, trên đó là hình thù kỳ dị của chóp đá chĩa lên trời. Giữa sân có một cột cờ
cao, sơn trắng. Thì ra chúng tôi đang ở giữa sân một tu viện. Thế nhưng lại
không có một bóng người.
Dù thế, tôi có cảm giác chắc chắn mình đang ở
đúng chỗ và ngồi xuống đường gỗ, để bình tâm xem mọi sự xảy ra thế nào và nếu
cần sẽ ngủ đêm tại đây. Trần phía trên đầu tôi hơi hư hỏng, nhưng sàn tương đối
khô và mưa sắp dứt.
Thình lình có tiếng chó sủa từ phía chúng tôi đã
vào. Bản năng làm tôi đưa mắt tìm kiếm một ngõ ra khác nhưng không có. Như thế
là chúng tôi nằm trong rọ rồi! Nhưng chúng tôi lại gặp may. Con chó không phải loại nguy hiểm như tôi hay
sợ (ai đã từng đi Tây Tạng đều biết rõ
loại chó Mastif nguy hiểm hơn chó sói nhiều) và sau chân nó là một vị lạt ma
già, ông kính cẩn chào tôi. Tôi nói với ông mình là kẻ hành hương từ phương xa,
đi thăm các thánh địa Tây Tạng. Nhìn quần áo, ông biết tôi thuộc về một dòng tu
Tây Tạng, vì vậy mà không chút chần chứ, ông mở cánh cửa nặng nề của đền và ra
hiệu cho tôi đi theo.
Ông dẫn tôi qua những bậc cầu thang tối và dốc,
lên một hang rộng và các vách tường phẳng hình như mang đầy những bức họa rất
cổ. Trong ánh sáng lờ mờ của một ngọn đèn thờ hiện ra bàn thờ cao với dĩa cúng
và bình nước, trên đó có tượng Liên Hoa Sinh, người tiên phong Phật giáo và nhà
sáng lập dòng tu cổ nhất Tây Tạng (Nyingmapa) mà tu viện này thuộc về đó. Tả
hữu hai bên là tượng hai vị Bồ-tát và dưới chân là các tượng nhỏ của các đại đệ
tử của Liên Hoa Sinh, như công chúa Ấn Độ Mandarava và vị nữ thánh Tây Tạng
Yésché Tshogyal (là người mà các tác giả phương Tây hay lầm gọi là vợ của Liên
Hoa Sinh mặc dù trong tiểu sử của Ngài đã ghi rất rõ).
Sau khi chấm dứt nghi lễ chào hỏi, tôi được đưa
lên một phòng nằm cao hơn trong đền. Theo các tranh bích họa thì đền này mới
được sửa sang lại gần đây. phòng này dùng để thờ Thích-Ca Mâu-Ni, vị Phật lịch
sử. Tượng của Ngài có hai vị đại đệ tử Xá-lợi-phất và Mục-liền-liên theo hầu,
bên cạnh đó là tượng của vị Phật của thời kiếp trước – Nhiên Đăng – và của vị
lai – Di Lặc Phật.
Khi ra lại sân thì đã có nhiều vị lạt ma tại đó
và sau khi trả lời câu hỏi từ đâu đến, đi về đâu thì người ta đưa tôi vào một
phòng lớn, hoàn toàn trống và cho hay chưa có ai từng ở trong này cả. Phòng này
nối với sân bằng một cầu thang dốc và có một cửa sổ nhìn xuống bình nguyên.
Vách tường đối diện với cửa sổ bị một mỏm đá lớn xuyên thủng, nó nhắc tôi nhớ
đến tính chất lạ lùng nơi đây, nơi sinh ra từ sự giao hòa giữa con người và
thiên nhiên.