Con Đường Mây Trắng - Chương 2 - Phần 1
PHẦN THỨ HAI
CUỘC ĐỜI HÀNH HƯƠNG TRÊN CAO NGUYÊN
Chúng tôi đã vượt qua ngọn đèo đáng sợ cao sáu
ngàn mét dưới một bầu trời không mây một cách dễ dàng. Lúc leo lên vách phía
nam của đèo, mặt trời nóng tới mức mà tôi phải cởi hết áo quần ấm, cất vào hành
lý. Thế nhưng vừa qua vách bắc của đèo, nằm trong bóng râm thì trời bỗng lạnh
như băng làm tôi phải tiếc vì đã không cầm sẵn áo ấm trong tay. Trời lạnh tới
mức mà ai cũng phải vận động liên tục để giữ hơi ấm. Vì vậy mà tôi không dám
bảo đoàn người dừng lại để mở hành lý lấy áo ấm ra.
Tây Tạng là xứ sở mà người ta phải luôn tính đến
chuyện gặp những cảnh bất ngờ. Ngay cả quy luật tự nhiên tưởng như quen thuộc
cũng hầu như mất giá trị. Nhiệt độ sôi của nước thấp đến nỗi nếu vô ý nhúng tay
vào nước sôi, người ta cũng hầu như không hay và không bị thương tích gì. Vì
thế mà trên độ cao này không thể nấu cơm được vì thời gian nấu chín quá lâu đến
nỗi cơm biến thành nước cháo hay hạt còn cứng bên trong. Thế nhưng cái khác biệt
giữa bên mặt trời chiếu và bên bóng râm thì to lớn tới mức mà nếu ta đứng giữa
hai bên, thì thân bên ánh sáng sẽ bị phỏng vì nắng và bên kia phải phỏng lên vì khí lạnh như băng. Không khí quá loãng
không hấp thụ nhiệt độ được để truyền nhiệt cho phía bóng râm cũng như không
thể che chở cái nóng và các tia cực tím của mặt trời. Sự chênh lệch nhiệt độ
giữa ánh nắng và bóng râm, như nhiều quan sát viên ghi nhận, có thể lên tới 100
độ Fahrenheit (38 độ C). Tôi không hề nghi ngờ điều đó vì khi cỡi ngựa thì chân
tôi tuy mang ủng lông nhưng
giá lạnh tới mức không còn cảm giác, còn tay cầm cương ngựa thì bị phồng lên vì
nóng. Tưởng như bị phỏng nước sôi. Tệ hại nhất là da mặt của tôi bóc ra từng
mảng trước khi quen được với khí hậu này. Mặc dù có bôi kem nhưng môi tôi sưng
phồng lên, ăn uống rất khó chịu. May thay chỉ sau khảng ba bốn tuần thì da tôi
đã quen chịu
đựng va sau đó trong chuyến hành trình không còn gặp trở ngại gì nữa.
Ngay cả người Tây Tạng, trừ những người liên tục
sống ngoài trời như người chăn thú, nông dân hay thương nhân, cũng luôn luôn
che mặt khi đi xa để tránh nắng mặt trời và gió lạnh thường thổi trên cao
nguyên trong các mùa nhất định. Loại gió này mang theo cát, châm chích và chui lọt vào cả áo dày. Rồi khi gặp một
đoàn người bịt mặt và vũ trang trong cảnh hoang vu không ai ở lại là một nỗi lo
sợ không biết sau mặt nạ che đó là người dân bình thường hay kẻ cướp. Kẻ cướp
cũng nhiều, nhất là trong thời kỳ bất ổn chính trị hay chiến tranh, khiến những
vùng mà thương nhân hay qua lại thêm nguy hiểm.
Nhưng tôi cũng không quá sợ (mặc dù hồi đó đã
biết vùng Turkentan đã có dân nổi loạn), vì sau khi rời biên giới Ladakh, tôi
bỏ tuyến thương nhân đến “chỗ không người”, nằm giữa vùng đại hồi Panggong và
Yak-Tso đến cao nguyên Aksai-Tschin. Biên giới giữa Ladakh và miền Tây Tạng do
Lhasa cai quản hồi đố chưa rõ ràng, vì không ai quan tâm đến chỗ không người
này. Trên thế giới, nó thuộc về những nơi ít ỏi mà con người và thiên nhiên cứ
bị để mặc, không bộ máy hành chính nào ngó ngàng tới. Vì thế lòng tôi đầy một niềm sung sướng kỳ lạ và sự tôn quí, cảm thấy mình
hoàn toàn thuộc về mình, đứng một mình giữa thiên nhiên vô tận, giữa trời đất
bao la, như ngày mà con người chưa được dựng.
Hai người Ladakh trung thành và người ngựa là
những sinh vật duy nhất còn liên hệ với tôi; và trong cảnh bao la của thiên
nhiên này, tôi thấy họ gần gũi và thân thuộc với mình xiết bao. Không nhiều thì
ít, chính những con ngựa quyết định chúng tôi phải dừng chân chỗ nào vì chỉ
nghỉ ngươi nơi nào
có cỏ và nước cho chúng.
Dù cảm giác nhỏ nhoi trước cảnh hùng vĩ của vùng
núi non, dù biết cái giới hạn và sự phụ thuộc của con người trước nắng mưa, với
nước cỏ, với thức ăn, chất đốt và các điều kiện vật chất khác, thế nhưng tôi
chưa từng có một cảm giác về tự do và độc lập lớn hơn thế này. Chưa bao giờ tôi
rõ cái mà ta gọi là đời sống văn minh lại chật hẹp và hạn chế như thế và để có
một đời sống an toàn, ta phải trả một giá cao thế nào về tự do và độc lập thật
sự trong tư tưởng và hành động.
Một khi mỗi chi tiết đời sống đã được tính toán
và qui định, mỗi khoảnh thời gian ngắn nhất đã được định trước phải làm gì, thì
những dấu vết cuối cùng của tự tính vốn phi thời gian và vô tận của ta cũng
biến mất; mà từ tự tính đó tự do được sinh ra. Tự do không phải là muốn làm gì
thì làm, nó không phải là tự tùy tiện, bỏ mặc, chẳng phải là sự phiêu lưu, mà
tự do là khả năng có thể chấp nhận được cái bất ngờ, thu liễm và chuyển hóa nó;
tức là nới tâm mở rộng đối diện với mọi tình huống bất ngờ của đời sống - tốt
cũng như xấu. Đó là khả năng có thể phù hợp được với muôn hình vạn trạng của
điều kiện sống mà không đánh mất niềm tin nơi các mối liên hệ sâu xa giữa thế
giới bên trong và bên ngoài. Đó là niềm xác tín, không bị thời gian lẫn không
gian hạn chế, khả năng chứng thực cả hai mà không chấp trước vào một khía cạnh
nào, không tìm cách chiếm đoạt chúng bằng cách chia chẻ chúng ra từng mảnh.
Thời gian bị chia chẻ một cách cơ giới và giả tạo của con người hiện đại đã không làm
con người thành chủ của nó mà ngược lại là nô lệ; càng muốn tranh thủ thời gian,
ta lại càng mất nó. Điều đó giống như ta bắt dòng sông ép vào trong một cái
chậu mà quên rằng chính sự trôi chảy, chính sự tương tác của vận động mới làm ra dòng sông. Điều này
cũng đúng cho thời gian: chỉ ai chấp nhận nó trong toàn bộ kích thước, trong
nhịp điệu vô tận và sáng tạo đời sống, cái làm nên tính tương tục của nó, thì
kẻ đó mới làm chủ được nó, biến nó thành của mình được. Khi ta chấp nhận thời
gian như thế, sẵn sàng thu liễm vào trong ta mà không ngăn chận dòng chảy của
nó thì nó sẽ mất uy lực đối với ta. Chúng ta sẽ như được nó chuyên chở trên
đỉnh cao, không bị nuốt trọn, không bị kéo xuống vực và nhờ thế mà không mất
tầm nhìn về những cái phi thời gian.
Không nơi nào mà tôi cảm nhận được điều này sâu xa hơn bằng giữa bầu trời Tây Tạng, trong sự trầm lắng sâu thẳm, sự
trong suốt của bầu không khí, cái rực rỡ của màu sắc và cái thanh tịnh hầu như
trừu tượng của dáng núi. Cuộc sống hữu cơ đã thu lại thật nhỏ nơi đây, không có
vai trò gì trong cảnh quan chung, bản thân cảnh quan lại là biểu trưng của sự
sống, của những sức mạnh uyên nguyên từ trời đất. Núi đá vắng cây cho thấy một
cách trọn vẹn qui luật của trọng trường - có đôi chút thay đổi thì cũng chỉ vì tác động
của mưa gió - và của cấu trúc địa chất và tính cách của đất đá, biểu hiện bằng
màu sắc và hình dáng.
Trời và đất đã đổi vai cho nhau. Nếu bầu trời thường sáng hơn cảnh vật dưới chân mình thì ở
đây bầu trời thường tối và sâu; trong lúc đó, cảnh vật nổi bật trên bầu trời
bằng sắc màu rực rỡ, hầu như chúng là nguồn sáng. Sắc đỏ và vàng bập bùng như
lửa cháy trước bức màn xanh đen của trời.
Thế nhưng khi chiều buông thì màn đêm ập đến, cho
một cái nhìn vào chiều sâu của vũ trụ. Ngàn sao sáng rực và gần gũi hầu như
chúng là một phần của cảnh vật. Ta thấy chúng như từ trên cao sa xuống chân
trời lóe lên một cái rồi biến mất, như một người cầm đèn biến mất sau cánh cửa.
Vũ trụ không còn chỉ là một cái gì trừu tượng mơ hồ mà một thực tại có thể thấy
rõ và vì thế ở đây không ai nghĩ về “thời gian” mà không nhớ đến mặt trời, mặt
trăng và những vì sao, các thiên thể chế ngự nhịp điệu của đời sống; nhờ thế mà
thời gian mất khía cạnh tiêu cực của nó, nó trở thành một kinh nghiệm cụ thể
của một sự vận hành miên viễn, qui hoàn sáng tạo, là tự tính của muôn vật. Vì
bầu trời hầu như không bao giờ bị mây che phủ hoàn toàn, con người luôn luôn
thấy được tiếp xúc với các thiên thể và chiều sâu xa của không gian. Cả ban đêm
cũng không bao giờ tối hoàn toàn. mộ t thứ ánh sáng lờ mờ kỳ lạ chiếu cảnh vật
trong những đêm không trăng, một thứ ánh sáng tỏa ra từ các vì sao. Trong thứ
ánh sáng đó mọi vật và cảnh quan hiện ra tương đối rõ nét không màu không bóng.
Mực nước trong sông suối cũng dâng hạ với nhịp
vận hành của thiên thể, vì trong mười hai giờ của ngày hè thì tuyết trên núi
bắt đầu tan khi mặt trời rọi, tối đến thì đông cứng lại. Thế rồi nước lại cần
khoảng mười hai giờ để chảy từ núi xuống suối, nên khoảng chiều tối nước suối
dâng cao và sáng hôm sau lại hạ xuống. Các dòng suối nhỏ thường khô kiệt trong
các giờ ban ngày, ban đêm lại trở thành dòng thác chảy xiết. Vì thế nếu ai cắm
lều bên cạnh một dòng suối tưởng khô ráo có thể ban đêm bị nước cuốn (điều này
đã xảy ra cho tôi nhưng rất may giờ cuối đã cứu được cả người lẫn hành lý).
Nhịp điệu lớn lao của thiên nhiên xuyên suốt mọi
thứ và con người đan kết với nó về vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả trí tưởng
tượng hay sự cảm xúc cũng ít tùy thuộc vào lĩnh vực của cá thể mà nó tùy thuộc
vào cảnh vật. Trong đó nhịp điệu của vũ trụ tinh đọng thành một tiết điệu với
sức thu hút không cưỡng lại được. Nơi đây trí tưởng tượng chính là biểu hiện
của thực tại trên bình diện ý thức con người và ý thức này dường như nối mọi cá
thể với nhau và cho cả vùng một không khí tâm linh.
Dưới ảnh hưởng của miền đất lạ lùng này, trong đó
lũng còn cao hơn những đỉnh núi tại châu Âu, và núi non vươn đến những không
gian siêu nhân thế; nơi dây đã xảy ra một sự du hành tâm linh kỳ lạ. Điều này
dường như một tảng đá nặng đã được xuất hiện tự nhiên và nhẹ nhàng, nhưng không
mất đi mối liên hệ và phương hướng của chúng. Một sự chú tâm và sáng sủa cao độ
được đạt đến, không chút cố gắng và một niềm vui cao cả giữ tâm trong trạng
thái sẵn sàng sáng tạo. Tâm thức như được nâng lên bậc cao hơn, nơi đó các
chướng ngại quấy nhiễu của đời sống bình thường không còn hiện diện hay chỉ
hiện ra như những ký ức lờ mờ, không còn quan trọng hay thu hút gì nữa. Đồng
thời người ta ý thức về những dạng mới của thực tại, thấy nhạy cảm, mở rộng hơn
với nó. Khả năng trực giác được đánh thức và kích thích: nói ngắn gọn, đã hình
thành tất cả các điều kiện để chứng được đại định (dhyana) cũng như các dạng
thiền quán cao hơn.
NGÔN NGỮ SỐNG ĐỘNG CỦA MÀU SẮC
Sự chuyển hóa ý thức mà tôi thấy ở đây (cũng như
những lần trở lại Tây Tạng) có một sự tương tự nhất định với sự chuyển hóa mà
tôi đã có ở Yi-Gah Tscholing khi đến đó lần đầu; mặc dù lần này có qui mô lớn
hơn vì nơi đây tất cả mối liên hệ với thế giới quen thuộc đã bị cắt đứt và ảnh hưởng của các hang động, của
không khí loãng, của thời tiết và của điều kiện sống đều tham gia vào sự biến
đổi tâm lý đó. Mặt khác, sự chuyển hóa tâm linh không vì những yếu tố vật lý đó
mà giảm ý nghĩa. Cả những phép tu du già cũng là một sự phối hợp các yếu tố vật
lý, tâm thức và tinh thần, thí dụ tác động của phép làm chủ hơi thở (pranayama)
và thái độ của thân cùng với sự tỉnh giác, quán chiếu của tâm, hòa trong sự an
tĩnh của cảm xúc nội tại.
Không khí cực loãng có một tác dụng như một số
phép luyện hơi thở vì nó buộc ta phải điều chỉnh hơi thở một cách nhất định,
nhất là khi phải leo cao hay đi đường xa. Vì thiếu dưỡng khí, nên ta phải hít
một khối lượng không khí gấp hai ba lần so với độ cao mặt biển và trái tim cũng
phải làm việc nhiều hơn hẳn. Mặt khác, trọng lượng của thân thể giảm đi nên cơ
bắp hầu như có thể nhấc bổng nó và khi leo cao ta có cảm giác như chắp cánh.
Thế nhưng đây chính là chỗ nguy hiểm vì ta không trực tiếp thấy được tim và
phổi đang chịu thiệt. Chỉ khi thấy mình hụt hơi và tim đập loạn xạ, ta mới sực
nhớ tự nhủ phải kiểm soát từng cử động của mình. Người Tây Tạng thường đi những bước dài chậm rãi và lồng hơi thở của mình
trong bước đi. Thế nên việc đi bộ cũng trở thành phép kiểm soát hơi thở, tương
tự như phép tu Hatha-Yoga của Ấn Độ, và đều này càng rõ hơn khi mỗi bước đi
lồng hơi thở còn kèm theo việc đọc thần chú một cách nhịp nhàng, như người Tây
Tạng thường làm. Xuất phát từ kinh nghiệm chính mình, tôi có thể khẳng định
rằng điều này mang lại an bình và có tác dụng tăng năng lực rất nhiều.
Kể từ đó, điều làm tôi rõ hơn hẳn là ảnh hưởng to
lớn của màu sắc lên tâm thức con người. Không kể sự thưởng ngoạn nghệ thuật về
cái đẹp mà màu sắc tạo nên cho ta - điều làm tôi thích họa là để cố giữ lại cái
đẹp cũng như trao truyền cho người khác - tôi còn nhận ra một cái gì sâu xa và
tinh tế do màu sắc tạo nên, có lẽ nhiều hơn bất cứ yếu tố nào khác trong các
chứng thực thiền quán Tây Tạng.
Màu sắc là ngôn ngữ sống động của ánh sáng, của
sự bày tỏ một thực tại có ý thức. Ý nghĩa tâm linh của màu sắc xem như biểu
tượng và thuộc tính của thực tại cao cấp được nhận biết bằng cách chứng những
màu sắc với mức độ khác nhau. Chúng hiện ra thành những màu rực rỡ, thuần khiết
và có điều thú vị là một nhà tư tưởng hiện đại và nghiêm túc như Aldous Huxley
đã kết luận là màu sắc là “bằng cớ của thực tại”.
Theo tôi thì những sự trừu tượng hóa đầy đủ khái niệm, những biểu hiện và hình dung do suy
luận mà thành, tất cả những cái đó đều vô sắc, trong lúc thực tại, dù nó thuộc
dạng ấn tượng cảm quan của thế giới ngoại cảnh hay thuộc biểu tượng uyên nguyên
của nội tâm trực tiếp thì nó cũng đầy màu sắc. Hơn thế nữa, cái thứ hai (ấn
tượng nội tâm) nói như Huxley, “có màu sắc đậm đà hơn hẳn hình ảnh ngoại giới.
Thế nhưng ta cứ tìm cách trừu tượng hóa sự vật theo cách dễ hiểu cho ta. Làm
như thế, ta chỉ đánh mất tự tính của sự vật. Với kia của tâm thì ít nhiều ta
không còn cần đến ngôn ngữ và nó nằm ngoài hệ thống của suy luận khái niệm. Thế
thì những cảm thụ hình ảnh
của ta mang đầy sự tươi trẻ và cái sung sức trần trụi của ấn tượng, chúng không
cần diễn đạt bằng ngôn từ, không cần sự trừu tượng khô cứng. Màu sắc của chúng
(đặc trưng của sự vật) tỏa rực bằng một thứ ánh sáng, đối với ta là siêu nhiên,
nhưng kỳ thực là hoàn toàn tự nhiên trong nghĩa chúng không bị tri thức hóa qua
ngôn ngữ hay qua những hình dung khoa học, triết lý hay thực dụng; mà vì những
hình dung đó mà ta cho chúng xuất hiện lại trong thế giới này bằng những hình
ảnh mù mờ của nhân thế chúng ta”.
Cảnh vật Tây Tạng có rất nhiều cái “sung sức trần
trụi” này của hình dạng và màu sắc, nối liền ta với một linh ảnh siêu nhiên hay
một giấc mơ tiên tri, giấc mơ này thường ở chỗ sự sáng láng và sinh động của
màu sắc. Trong một giấc mơ loại đó, lần đầu tiên tôi thấy màu sắc rực rỡ và
thuần tịnh như thế, trong dạng một đỉnh núi trồi lên từ dưới biển xanh ngắt.
Lòng tôi tràn ngập niềm vui sướng và tự nghĩ: đây phải chăng là quần đảo thiên
đường Nam Hải, nơi tôi đã nghe nhiều. Thế nhưng về sau khi đến những đảo phủ
đầy dừa của miền biển nhiệt đới, tôi không còn thấy những màu sắc đã làm mình
vui thích đó nữa.
Thế mà tôi lại thấy những màu sắc này tại Tây
Tạng và niềm vui sướng khi nhìn thấy màu sắc trở lại với tôi như trong giấc mơ
đó. Nhưng tại sao tôi lại thấy đỉnh
núi nọ trồi lên từ nước biển xanh ngắt? Câu hỏi này nằm hoài trong trí tôi đến
một ngày nọ chúng tôi đến một hẻm núi hẹp và nóng, xung quanh là đá màu vàng
vây đầy, qua đó không những ánh sáng còn thêm chói chang mà hơi nóng cũng tăng
lên tới mức người ta trong mình ở vùng Sahara chứ không phải ở độ cao 4500 m của miền Trung Á. Nóng tới
mức mà khi nghỉ trưa tại một con suối nhỏ, tôi đã không cưỡng lại được, cởi hết
áo quần xuống tắm và bơi một đoạn trước sự ngạc nhiên của các người Ladakh. Tôi
thấy mình hết sức sảng khoái, nhưng không tắm được lâu vì hẻm núi càng lúc càng
nóng. Và con suối cũng cạn dần do nó đổ vào một cái hồ cạn màu vàng; nó tỏa ra
một màu xanh cực mạnh như được chiếu từ bên trong. Thật là một cảnh quan bất
ngờ, trực tiếp, khác từ bên trong. Thật là một cảnh quan bất ngờ, trực tiếp,
khác hẳn với những gì đã xảy ra từ trước đến giờ. Tôi kinh ngạc không biết giải
thích ra sao. Sợ rằng mình có ảo giác, tôi gọi các người cùng đi: “Xem kìa, cái gì thế?”.
“Tso! Tso! Panggong Tso.” Họ đồng thanh gọi và ném mũ lên trời vui mừng, hầu
như vừa qua được một đỉnh đèo. Thật ra chúng tôi mới tới một Lhasa-tse (tháp
đá), đỉnh đèo nào cũng có - nhưng đây là chốn quí báu, nơi mà đại hồ Panggong
có thể thấy được đầu tiên. Và chúng tôi cũng lấy đá ném vào chỗ đó, lòng thầm
biết ơn có ai đã giúp mình thoát được hẻm núi. Thế nhưng tôi vẫn không tin nơi
mắt mình. Không thể được! Nó như một loại nước nào tự sáng, không có trên trần
gian.
Không bao lâu sau chúng tôi thoát khỏi hẻm núi
đầy sức nóng và trước mắt chúng tôi, hồ trải dài như mặt của loại đá quý Lapislazuli sắc xanh đã tan
chảy; nhìn xa xa thấy như màu xanh đậm nước biển và gần bờ có màu cobalt xanh
sáng. Tại các bờ cát trắng sáng, nước lấp lánh màu lục. Những ngọn núi nằm sau
làm nền cho cảnh tượng màu sắc khó tin này là một bản hòa ca của những màu vàng
óng, đất cháy và đỏ tươi với bóng ngã sắc tím. Đúng đây là cảnh vật sáng rực
của giấc mơ xưa, cảnh vật vươn từ một dòng nước xanh đầy ánh nắng lên bầu trời
sâu thẳm không gợn mây.
Núi bên trái có hình dạng sắc sảo, phía đối diện
lại thoai thoải một dãy, quanh năm tuyết phủ. Chúng chạy song song với các hồ
Panggong-Tso và Nyak-Tso, hay hồ này tạo nên một vùng nước gần như liên tục dài
hơn 160 km. Ngày xưa hai hồ là một thung lũng dài ngập nước. Về sau vì núi lở,
chúng bị chia đôi ra làm hai hồ riêng biệt.
Khi đến trạm dừng dưới chân dãy núi tuyết, cao
hơn bờ hồ đôi chút, tôi đã bị mê hoặc bởi màu sắc của hồ và núi và của một nhịp
điệu kinh khủng đang lan tỏa nơi đây; đến nỗi quên cả đói và mệt, tôi trở lại
ngay chỗ cũ, nơi mà lần đầu tôi chiêm ngưỡng hò và núi tuyết. Thế nên tôi lại
đi với giá vẽ, giấy, màu và vài miếng Kulchas đỡ lòng, qua vài cây số để trở lại chỗ tôi đã lưu
ý nhưng không dám ngừng lâu vì lúc đó không biết bao lâu mới đến chỗ nghỉ. Tôi làm việc với lòng hứng thú, nên chỉ sau
thời gian ngắn mà vẽ được hai ba tấm hình. Mặt khác tôi vẫn nhớ là trễ lắm lúc
mặt trời lặn mình phải có mặt tại trại.
Dù thế, chuyến đi ngắn của tôi suýt bị nguy; vì
bận về thình lình tôi gặp một dòng nước chảy xiết mà bận đi không có. Khi đi,
vì nóng ruột muốn đến, tôi quên không để ý đến nhiều dòng suối cạn nước. Nước
tan trên núi đã chảy xuống muốn cắt đường đi của tôi. Vì biết không còn nhiều thời giờ, tôi đành phải lội nước lạnh ngắt và
sau khi lội qua hai ba dòng suối mới về tới nơi, gần lả người. Dù bao mệt nhọc,
ngày hôm đó tôi rất vui sướng đã tận hưởng được vẻ đẹp và sự trực nhận không
thể nào quên về cái hồ này.