Con Đường Mây Trắng - Chương 2 - Phần 2

NHỮNG GIẤC MƠ VÀ KÝ ỨC BÊN HỒ XANH

Trong những ngày sau chúng tôi đi theo bờ hồ dưới
chân núi tuyết, mà triền núi chạy thoai thoải ra xa biến thành đất bằng, thành
một vùng đất cao nằm trên hồ, thỉnh thoảng lõm xuống từng dòng. Thế nhưng những
dòng này ít khi có nước nên đồng cỏ cũng hiếm. Thành thử tuy gần hồ nhưng ban
ngày hầu như người ta thiếu nước. Thứ nhất, là bờ hồ rất khó xuống vì cao
nguyên nằm cạnh hồ gần như có vách dựng đứng, chỉ trừ những nơi bị trũng mới có
nước chảy xuống. Dọc theo các dòng này là đến những đoạn có cát sỏi. Thứ hai,
vùng này thiếu nước uống vì một lý do bất ngờ: nếu có tới bờ hồ thì nước cũng
chẳng uống được vì trong nước chứa quá nhiều chất magnesium.

Đó là lý do sinh ra độ trong và màu sắc nhưng nó
làm cho nước không thể chứa sinh vật, dù thực vật hay động vật rất nhỏ cũng
không. Thế nên nước trong vắt, trong những ngày lặng gió không sóng, đứng sát
bờ, ta không phân biệt được đâu là nước đâu là bờ. Tôi vẫn nhớ rõ cái hoảng sợ
trong ngày mình đến gần bờ và chân đạp vào nước lạnh ngắt lúc nào không hay.
Những viên sỏi nọ với màu sắc đáng yêu, không khác gì những viên nằm trên bờ,
vậy mà chúng lại nằm trong nước. Nước trong không màu hệt như không khí. Chỉ
nơi nào khá sâu thì nó mới mang một màu xanh lục, sâu hơn thì chỉ còn một màu
xanh ngắt, chính màu xanh biến hồ thành một sự kỳ diệu.

Màu của hồ và vùng xung quanh nó không ngưng cuốn
hút tôi. Buổi tối, khi nước do tuyết tan chảy vào hồ, chúng làm thành một dải
sáng bạc trên màu xanh đậm của hồ; trong lúc xung quanh các đỉnh núi rực màu
cam, đỏ và tím, và bầu trời chuyển dần với sắc màu của một cầu vồng.

Thời tiết bỗng nhiên trở nên dễ chịu, như Địa Trung Hải gặp gió ấm và
ngày nọ chúng tôi đi qua một vùng cát trắng thỉnh hoảng xen lẫn vài đám sỏi,
nóng bỏng, trải dài cả cây số giữa các triền núi tuyết và hồ. Mặc dù ngay giữa
tháng bảy tôi cũng không ngờ trên cao nguyên Tây Tạng lộng gió mà có cái nóng
thế này. Nhưng như đã nói, Tây Tạng là một vùng đất của bất ngờ và đối nghịch:
trong một ngày người ta có thể chết cóng và qua ngày hôm sau bị phơi nắng hay
phải đương đầu với bão cát.

Không bao lâu sau khi vượt qua sa mạc cháy bỏng,
chúng tôi đến
một vùng dễ chịu với nhiều bụi hoa và đồng cỏ, được một dòng sông con tưới
nước. Đây là một vùng bằng phẳng nằm giữa hồ và núi đã rút lui. Những cánh hoa
ở đây khá giống với loài hoa đồng nội về màu sắc và hình dáng, nhưng thân của
chúng lại khỏe nên giúp chúng tôi không có gỗ, thay vào đó là phân trâu mà
chúng tôi nhặt nhạnh mỗi ngày, cũng có khi là rễ cây hay bụi gai tìm thấy bên
cạnh bờ suối hay lòng sông đã cạn. Kể từ ngày rời lối mòn của lữ hành thì phân
trâu cũng hiếm. Ngay trên đường đi của họ thì phân trâu hay phân ngựa cũng đáng
quí, không ai đi ngang mà không nhặt lên cho vào túi trước bụng để dành khi đêm
đến đốt lửa. Trong không khí cực khô của vùng này thì phân trâu ngựa nơi đây
đều cứng như gỗ và cũng không có mùi hôi.

Ai chưa ở Tây Tạng hay những vùng không có gỗ ở
Trung Á thì khó có thể hình dung về giá trị của phân trâu. Nó là chất đốt quan
trọng nhất của cả nước, nó cháy với một ngọn lửa hầu như không khói, nóng và
đều. Vì chỉ có dầu trong trường hợp thật cần thiết, như trong đền đá lần đó tại
Tschang-La. Kể từ ngày đó, chúng tôi không bao giờ ở trong nhà, ngay cả những
lúc có nhiều người tại Tankse, chúng tôi thích cắm lều ngoài trời hơn. Sau Tankse
thì với vài ngoại lệ xuất hiện vài túp lều ở chân dãy Panggong gần nơi có canh
tác lúa mì, chúng tôi không còn thấy làng mạc nào nữa.

Vì thế, chất đốt và vấn đề chính và quan trọng
như nước cho người hay cỏ cho ngựa. Cũng thế, thật đáng vui khi chỗ không người
ở này lại có tất cả những gì cần cho sự sống còn. Chúng tôi hạ lều thoải mái
nơi kín gió cạnh bờ suối. Thật là một chỗ nên thơ, một phía thì được ngắm nhìn
núi tuyết, phía bên kia là hồ.

Tôi cảm thấy sung sướng và vô tư tới mức quyết
định cắm trại ở lại đây vài ba ngày để tìm hiểu các nơi xung quanh, dùng thời
giờ để vẽ và thiền định. Trong sự thanh tịnh của thiên nhiên hoang sơ, xa lánh
mọi mưu toan thế gian, dưới bầu trời cao rộng, bao bọc bởi một phong cảnh chỉ
có trong mơ mà màu sắc như núi bằng đá quý của một thiên đường huyền hoặc, tôi thấy mình thật an tịnh với chính mình và
thế giới.

Điều lạ là tôi không có cảm giác “cô đơn” trong
sự yên tĩnh vĩ đại của thiên nhiên và cũng không thấy có nhu cầu phải trao đổi
với ai. Hầu như ý thức của tôi đã rộng mở để bao gồm luôn thế giới ngoại cảnh -
phong cảnh, bầu trời và con người – những cái liên hệ với tôi, hiện tại cũng
như quá khứ. Hơn thế nữa, quá khứ hầu như choàng lên hiện tại xuyên qua hiện tại. Tôi đã thấy hiện
tượng này rồi trong những dịp khác, đặc biệt ở những nơi có độ ẩm cao, hay lúc
mây kéo đầy bầu trời hoặc lúc không khí hầm hập nặng nề.

Ngay cả trước đây tôi đã thấy lúc nào có dấu hiệu
thay đổi thời tiết thì giấc mơ của tôi cũng bị ảnh hưởng theo; cho nên hồi đó
tôi đã có thể tiên đoán lúc nào thời tiết sẽ thay đổi bất ngờ. Tôi nhớ người ta
nói lúc nào mơ thấy người chết là trời sắp mưa. Vì không thấy mối liên hệ giữa việc mơ thấy người chết và mưa nên
tôi cho đó là nhảm nhí. Nhưng gần đây tôi thấy, bất cứ lúc nào nằm mơ thấy
người thân lúc mình còn nhỏ và chết đã lâu rồi thì trong vùng vài ngày sẽ có
mưa to, có khi dông hay bão tuyết. Thường thì những cơn mơ đó xảy ra khi không
có một đám mây nào trong bầu trời, chẳng có dấu hiệu nhỏ nào trời sắp chuyển
như nóng bức hay độ ẩm cao. Vì cao nguyên Tây Tạng ít mưa nên tôi dễ nhận ra
hiện tượng này và từ đó xem nó như kinh nghiệm. Trong những chuyến du hành sau
đi Tây Tạng tôi đều lưu ý giấc mơ của mình và dựa trên đó mà vạch kế hoạch.

Cách giải thích của tôi về hiện tượng đó là, ý
thức của ta phản ứng lại với sự thay đổi khí tượng, và với áp suất lớn thì tiềm
thức - nơi lưu giữ kỷ niệm của thời quá khứ lan động đến ý thức. Áp suất càng
lớn thì ta càng dễ nhớ về quá khứ và điều này biểu hiện qua giấc mơ, trong đó
những người liên hệ gần gũi với ta thời xa xưa hiện về, những người đó phần lớn
đã không còn nữa. Trong những vùng cao của Tây Tạng thì ta không những nhạy cảm
thêm với điều đó mà còn nhớ rõ hơn các giấc mơ đã bị chúng gây ấn tượng. Bản
thân người Tây Tạng càng tin vào ý thức trong các giấc mộng và ít khi sai lầm
khi suy đoán ý nghĩa của chúng.

Ngoài việc suy đoán giấc mộng, họ còn nhiều cách
để tiếp xúc với vô thức: Thiền định, xuất thần, đồng cốt và những dấu hiệu tự
nhiên lẫn siêu nhiên. Tất cả những điều này khắp nơi trên thế giới đều có, cả
trong các nền văn hóa khác nhau; và kết quả của chúng dường như đủ để làm con
người tin theo. Người Tây Tạng sẽ ngạc nhiên nếu ta nghi ngờ những điều này,
đối với họ tất cả đều là kinh nghiệm cụ thể, không liên quan gì đến lòng tin
hay lý thuyết. Đối với họ thì những thí nghiệm của nền tâm lý hiện đại, dùng
khoa học để “chứng minh” các hiện tượng thuộc tâm như thần giao cách cảm, chúng
thật là ngớ ngẩn buồn cười, như ta “chứng minh” các hiện tượng thuộc tâm như
thần giao cách cảm, chúng thật là ngớ ngẩn và buồn cười, như ta chứng minh sự
hiện diện của ánh sáng vốn ai cũng thấy chỉ trừ người khiếm thị. Chính những
cách làm phiền toái của các thí nghiệm đó mới là trở ngại lớn nhất cho thành
công của chúng. Khi đi tìm cái “khách quan”, họ đã loại bỏ sứ mạnh then chốt
của sự cảm xúc và tính tâm linh của con người, không có chúng thì không có cách
nào đi sâu hay tập trung được. Thái độ nghi ngờ, cách làm cơ giới và phương
pháp thống kê (chỉ tìm số lượng và bỏ qua chất lượng) và khung cảnh sơ sài của
các thí nghiệm, tất cả những cái đó đã đóng lại cánh cửa của “cảm thọ tâm lý”.

Tại Tây Tạng, khả năng tập trung và tự quán sát,
nhất là sự nhạy cảm tâm linh được nhân lên hàng trăm lần nhờ cái to rộng, sự an
tĩnh và đơn độc của thiên nhiên, nó có tác dụng như một tấm gương lõm, không
những chỉ phóng lớn những cảm xúc rung động riêng tư nhất của ta lên mà còn tụ
hội chúng trong một tiêu điểm: tại ý thức của chính chúng ta. Nơi đây không còn
gì làm tâm ta tán loạn, cả cái vĩ đại của thiên nhiên cũng không; vì thiên nhiên
không bao giờ gây phiền nhiễu mà ngược lại, nó kích thích ta tăng cường hoạt
động tâm linh. Tâm thức và thiên nhiên là hai yếu tố đồng minh không phải đối
thủ. Tính vĩ đại và cao rộng của thiên nhiên và tiết điệu phi thời gian của nó
phản ánh đúng ánh sáng đúng tính chất của các tầng tâm thức sâu kín của ta.

Nhìn chung thì hoạt động tâm linh của những người
khác có tác động gây nhiễu ý thức và cắt đứt hay làm lạc dòng chảy yên lành của
nội tâm, tư tưởng và cảm xúc, sự chú tâm tự do mở rộng, không bị ngăn ngại. Sự
nhạy cảm của nó không còn bị tâm thức lạ liên tục tác động nữa hoặc để cho
phiếm luận vô bổ và tiếng ồn vô nghĩa của đời sống văn minh làm cùn nhụt; và
nhờ thế nó có thể tiếp cận với vô thức của chính mình và với tất cả những người
có cùng mức độ, họ được kết nối với nhau bằng tình cảm hay bằng chứng nghiệm
giống nhau.

Điều này giải thích các hiện tượng thần giao cách
cảm thường thấy tại dân Tây Tạng – và không chỉ ở những người có trình độ tâm
linh cao mà cả với người dân dã, người chăn thú hay nhà nông, thương nhân hay
thợ thuyền, người Nomade hay lữ khách, những người phải đi trong vùng hẻo lánh
từ năm này qua năm khác. Sven Hedin kể lại trong ký sự của mình một trường hợp
điển hình: Trên đường đi nội Tây Tạng, ông đồng hành với một đoàn vào một nơi
hẻo lánh, hoàn toàn không có một người ở. Khi ông dự định đi sâu tìm hiểu vùng
này thì gặp một đoàn người Nomade, họ đưa một đàn thú từ vùng đó lại mà không
biết rất rõ nơi đó. Cố gắng lắm, ông mới thuyết phục được một người trong đó
làm hướng đạo cho đoàn. Đó là một người còn trẻ, rất nhút nhát, anh thú thật là
không quen sống ở chỗ đông người và chỉ chấp nhận hướng đạo cho đoàn nếu để anh
ta đi trước một mình, nếu không, anh không thể nhận biết dấu hiệu và phương
hướng đường đi. Sven Hedin chấp nhận yêu cầu đó và đoàn cứ đi theo sau anh một
quãng xa, cho tới một ngày nọ anh bị bệnh và chết. Sven Hendin không còn cách
nào khác hơn là cùng với đoàn đi lui lại, cứ theo đường cũ mà đi. Nhưng khi
đoàn còn cách chỗ đến vài ngày đường thì người em của anh đó đang đi ngược
chiều và trong đoàn chưa ai kịp giải thích về chuyện đã qua thì người em ngay
lập tức khóc lóc than vãn về cái chết của anh mình. Trước câu hỏi ngạc nhiên
của nhiều người, người em kể ra nơi chốn và nguyên do cái chết của anh mình một
cách chính xác. Anh ta đã nhìn thấy bằng con mắt tâm linh!

* *

*

Sự đơn độc xem ra có một tác dụng tương tự như
vài phép thiền quán hay phép tu du già. Nó tự động loại bỏ sự lung lạc do các
yếu tố bên ngoài và nhờ đó mà tạo ra một trạng thái an tĩnh nội tâm, một trạng
thái chú tâm tự nhiên. Đối tượng nào của tư tưởng xuất hiện trong tâm cũng có
một mức độ thực tại lớn hơn, rõ nét hơn và nhờ đó mà giữ được lâu hơn. Được quan sát chăm chú hơn. Cái đã qua đọng lại thành cái
hiện tại và cái hiện tại hiện ra không còn là đường cách ly giữa cái đã qua với
tương lai, mà là một khía cạnh nhất thể của thân thể đang tồn tại song song và
liên tục trong một sự chứng nghiệm bốn chiều.

Nhờ hạnh xả bỏ xảy ra trong sự đơn độc mà tôi
thấy rõ rằng, đời sống chúng ta phụ thuộc rất ít vào những quyết định do đầu óc
đạo diễn và lại dựa rất nhiều trên những biến cố, ấn tượng tưởng chứng như
không quan trọng; chúng đột nhiên hé mở cho thấy phương hướng chủ yếu của tự
tính đích thực của chúng ta. Chúng ta cho những biến cố hay ấn tượng này là
tình cờ vì đường như chúng xảy ra mà không có nguyên nhân gì nơi ta, nhưng ta
quên rằng sở dĩ có ý nghĩa vì chúng ta cho phép những năng lực được bộc phát,
thứ năng lực vốn nằm sẵn trong ta nhưng ta không biết đến chúng, chỉ vì những
kế hoạch do đầu óc ta nghĩ ra đã che lấp dòng chảy liên tục của đời sống nội tâm và sức mạnh tâm linh của mình.

Những giấc mơ thời thơ ấu của tôi đan quyện với
những đỉnh núi tuyết Andes và sự cô đơn độc kiêu kỳ của vùng cao nguyên
Bolivia, nơi sinh của mẹ tôi và cũng là nơi diễn ra nhiều chuyến đi phiêu lưu
làm bà tôi rất vui lòng, chúng cũng đưa tôi vào một thế giới hoang dã xa lạ,
trong đó những đoàn lừa ngựa kéo nhau đi trong núi rừng hoang vắng. Đồng thời
các câu chuyện những người trong nhà vây bọc lấy tôi, họ nói về các mỏ bismut trong núi Quechila, những
chuyện thời xưa của ông tôi tại Cochabamba hay những chiến tích của ông cố tôi
mà ngày xưa đã từng là một tướng lãnh trong cuộc chiến tranh giải phóng và là
đồng chí của Bolivar, ông đã mang lại một chiến thắng quyết định và nhận được
vinh dự của quân hàm cao nhất của tổng tư lệnh tại Montenegro.

Điều gây ấn tượng cho tôi hơn cả là cái vĩ đại
của những ngọn núi trọc, rõ nét của cao nguyên Bolivia và những bí ẩn nằm sâu
trong đó; một thế giới toàn vàng bạc được chôn giấu, Bismut và các thứ kim loại
khác. Tôi đã từng thấy những kim loại quí này và bị vẻ đẹp của nó thu hút hơn
trị giá, hồi đó tôi cũng chẳng biết gì về trị giá của nó. Nhất là loại bismut,
đó là một dạng kết tinh nhìn như những lâu đài bằng vàng, gây nơi tôi một sự mê
hoặc khó tả. Để tìm hiểu thế giới bí ẩn này trong lòng đất và để được sống vĩnh
viễn trong ánh sáng mặt trời và được nhìn hoài chân trời của miền cao nguyên
hùng vĩ này, tôi quyết sẽ đi theo nghề làm mỏ núi, tiếp tục truyền thống của
gia đình.

Thế nhưng khi lớn lên, nhận ra mình không ham
thích chiều sâu của trái đất bằng chiều sâu của tâm thức và vì thế tôi bỏ khoa
học tự nhiên để đến với nghiên cứu triết học. Và vì triết học đối với tôi là
việc đi tìm sự thực nên tôi không mấy ham các hệ thống triết học, đó là những
định nghĩa có tính hàn lâm các tư tưởng triết học, mà hướng về những dạng phát
biểu có tính tôn giáo của thực tại và cách thực chứng được nó. Tôi bị gây ấn
tượng sâu xa bởi các bài đối thoại của Plato, chúng hấp dẫn tôi nhờ vẻ đẹp văn
chương và tính tôn giáo. Trong các triết gia cận đại thì Schopenhauer gây ảnh hưởng mạnh lên tôi,
và sự nghiên cứu tác phẩm của ông dẫn tôi đến các nhà thần học Thiên Chúa giáo
cũng như đến Áo Nghĩa thư và Phật giáo.

Khoảng năm mười tám tuổi thì tôi bắt đầu viết một
công trình so sánh ba tôn giáo lớn của thế giới là Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và
Phật giáo để bản thân tôi được rõ và để quyết định luôn tôn giáo mà mình theo
là tôn giáo nào; vì thôi thấy vô nghĩa nếu chỉ chấp nhận một tôn giáo nào chỉ vì
cha mẹ mình theo nó, nếu chỉ vì xã hội mình đang sống chấp nhận nó. Đối với
tôi, tôn giáo là một chuyện có tính chất thuyết phục, dứt khoát chứ không phải
chỉ là sự tin trong đơn thuần hay qui ước chung chung; và muốn được thuyết
phục, tôi phải biết rõ.

Để tìm sự thực nơi ba tôn giáo này, tôn giáo nào
thuyết phục mình nhất, tôi bắt đầu đi sâu học hỏi. Chẳng bao lâu sau tôi thấy
Hồi giáo không chứa đựng ý niệm nào mới so với truyền thống chung của Do Thái
giáo và Thiên Chúa giáo nên nó sớm bị loại, chỉ còn Thiên Chúa giáo và Phật
giáo. Lúc đầu học hỏi, tôi thấy Thiên Chúa giáo ít nhiều thuyết phục tôi hơn
(dù nhà thờ không làm tôi tin tưởng). Thế nhưng càng đi sâu, tôi càng thấy mình
có nhiều tương đồng với Phật giáo - và cuối cùng tôi rõ, Phật giáo là tôn giáo
duy nhất thuyết phục tôi trọn vẹn. Thế nên cuốn sách chỉ dành cho giáo lý Đức
Phật và bản thân tôi là người đầu tiên được chính cuốn này đưa về với Phật giáo. Mặc dù các
chương sách này còn non nớt nhưng nó cũng được phổ biến tại Đức, tại Nhật mà về
sau khi đến Sri-Lanka, tôi khám phá ra nó, tám năm sau khi nó ra đời.

Điều làm tôi đi Sri-Lanka là nghĩ rằng mình tìm
nơi đó truyền thống thuần túy nhất của Phật giáo và nhất là cơ hội để chứng
nghiệm thiền định và tiếp tục học ngôn ngữ mà tôi đã học tại Capri và đại học
Napoli. Đại học này có một bộ kinh viết bằng văn hệ Pali do vua Chulalongkorn
của Thái Lan tặng.

Về điểm này thì ở Sri-Lanka thật nhiều thành quả
và dưới sự hướng dẫn của Nyanatiloka Mahathera, nhà sáng lập và viện trưởng của
tu viện trên đảo Pogasduwa, một trong những nhà thông thái Pali bấy giờ, tôi có
nhiều cơ hội học tập và thu thập kinh nghiệm, trong đời sống tu sĩ cũng như
trong giáo lý của Thượng tọa bộ của Nam tông Phật giáo. Lòng thân ái của dân
tộc Sri-Lanka cũng như tính kỷ luật và trình độ giáo lý của các sư đã gây ấn
tượng mạnh mẽ lên tôi. Nhưng tôi thấy thiếu cái gì nơi đây - điều gì thì về sau
tôi mới khám phá ra, lúc ngụ lại tại Yi-Gah-Tscho-Ling-Gah Tscholing, nơi đã
đột nhiên mở ra chân trời mới của chứng nghiệm tôn giáo và khi vị đạo sư xuất
hiện trong đời tôi.

Bây giờ tôi mới thấy cuộc đời quanh co và những
gốc rễ sâu kín của mình. Tôi nghiệm ra rằng, chuyến hành hương về chốn bất định
lại chính là chuyến trở về nơi tôi đã mộng thấy - và các giấc mơ lại chứa nhiều
thực tại hơn các kế hoạch của đầu óc, miễn là những giấc mơ đó phản ảnh niềm
tha thiết sâu xa nhất của tâm hồn chứ không phải là những ước muốn, tham vọng
nông cạn nằm sau những tính toán thiệt hơn. Thật đúng thay những lời của
Santayana:

Minh triết đâu phải là,

chỉ biết khôn ngoan thôi,

nhắm mắt không chịu thấy,

ảnh trong tâm xuất hiện.

Minh triết đích thực là,

biết tin nghe trái tim.

Nơi đây bây giờ, tôi ngồi trong vùng đất của “hồ
xanh núi đỏ” dưới những bụi cây nở hoa của một ốc đảo xa cách thế gian, cùng
với hai người đàn ông lạ hoắc, ngoài tôi ra thì họ là con người duy nhất trong
cái vô tận của vùng đất không người ở này, bên cạnh đống lửa, trong lúc ngựa
gặm cỏ và tiếng chuông quen thuộc của chúng vang lên trong đêm.

Khi trăng lên, tôi rời đống lửa, rút về giữa hai
bụi cây, đủ xa để bớt tiếng động và sự chú ý. Tôi để bàn thờ nhỏ với tượng Phật
của Tomo Géché - mà tôi luôn luôn mang theo - lên một chỗ hơi cao và ngồi chìm
sâu trong cuộc trao đổi với thầy mình. Nếu trong những ngày qua tư tưởng của
tôi luôn chìm trong quá khứ thì bây giờ nó hướng hoàn toàn vào con đường nội
tâm đang nằm trước mặt tôi, mà chính Tomo Géché, người đã chỉ cho tôi con đường
đó. Tôi không rõ mình đã ở bao lâu trong trạng thái hạnh phúc của quán tưởng và
đối thoại không lời đó. Bỗng nhiên mây kéo trên dãy tuyết và tôi quay về lửa
trại. Ngày hôm sau, một đám mưa nhẹ rơi trên đầu chúng tôi. Bầu trời đã gửi cho
chúng tôi phước lành.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3