Con Đường Mây Trắng - Chương 3 - Phần 1
PHẦN THỨ BA
TỬ VONG VÀ TÁI SINH
ĐẠO SƯ TỪ TRẦN
Sau khi từ Gantok về, tôi rút lui sống trong
phòng riêng của Tomo Géché tại Ya-Gah Tscho-Ling một thời gian. Thời gian như
ngưng lại trong căn phòng nhỏ này. Kể từ ngày tôi được gặp vị thầy đến bây giờ,
không có gì thay đổi. Chỗ ngồi của ông, trên đó chiếc áo choàng dài được xếp
cẩn thận, nhìn như ông vừa mới bước chân đi và trên bàn nhỏ trước chỗ ngồi là
một bình trà bằng ngọc xanh nhật được để trên một đĩa bạc và bên cạnh là các
pháp khí quen thuộc như kim cương chú, chuông và bình bát. Chiếc đèn dầu bạc nằm trước bàn thờ có khắc hoa văn
với tượng vàng Dolma cháy với một ngọn lửa đều đặn mà Katschenla, dù tuổi đã
cao, vẫn chăm chút lo lắng với sự tươi vui không thay đổi.
Đối với ông thì bậc đạo sư luôn luôn hiện diện và mỗi ngày ông sửa chỗ
ngồi, phủi bụi chiếc áo choàng tế lễ và xếp lại đúng chỗ, rót trà trước khi
uống chén trà của mình, lau chùi và châm thêm cho chén nước, bình dầu, thắp
nhang, tụng niệm kinh tán thán và qui y rồi ngồi thiền định yên lặng trước bàn
thờ với tranh tượng khác nhau. Ông làm như thế đúng theo trách nhiệm của một
đời sống tôn giáo và của một đệ tử hết lòng vì thầy. Được phụng sự thầy, đối
với ông là dạng cao nhất của “phụng sự thượng đế”, vì điều này đồng nghĩa với
phụng sự Phật.
Không một hạt bụi nào bán trên bàn thờ đã được
trang trí khắc họa và dát vàng. Sàn nhà bóng như một tấm gương và các bức họa
thanka cũng như khung tranh quí giá không hề mất một chút màu. Các tấm thảm dệt
bằng tay trên kệ hoặc treo tường, chiếc khăn nâu đậm căng dưới trần phòng và
bức tranh lụa vẽ bầu trời trên chỗ ngồi của bậc đạo sư và bàn thờ chính cho một
cảm giác tôi đang ở trong lều của một bậc trưởng lão người Nomade hay chúa tể
xa xưa ở vùng Trung Á chứ không phải trong thế giới và thời đại ngày nay. Căn
phòng này mang hơi thở truyền thống của hàng ngàn năm, tăng cường thêm bằng
nhân cách của một người với sự hiện diện sinh động của người đó.
Tôi có một cảm giác tương tự như lúc gặp ông lần
cuối tại Sarnath, khi vườn xoài của trú xứ thiêng liêng này biến thành khu vực
cắm lều của người Tây Tạng và vô số đèn dầu sáng trong đêm dưới các tàng cây để
cúng dường Tomo Géché Rimpotsché và đoàn đệ tử. Ông ở trong một căn lều lớn ở
giữa vườn xoài, dưới ánh sáng mờ nhạt của đèn dầu và lửa trại mà đám khói như
tấm màng mỏng lơ lửng giữa cây cối và lều, lúc đó thì khu vườn đối với tôi đã
trở thành một ốc đảo nằm xa giữa lòng châu Á, trong đó đoàn người ngựa hành
hương sau một chuyến du hành nhọc nhằn có được chỗ nghỉ ngơi. Thực tế thì đó là
một chặng cuối của chuyến du hành đời giác ngộ của vị đạo sư - sự từ giã những
thánh địa đánh dấu chuyến du hành trên trái đất này của Đức Phật. Đó là chuyến
hành hương cuối cùng của Tomo Géché Rimpotsché đi Ấn Độ trong mùa đông
1935-1936 với nhiều học trò theo. Khắp nơi, ông được đón tiếp nồng hậu, mặc dù
ông xa lánh mọi sự tôn sùng cá nhân và các buổi tổ chức công cộng.
Trên đường ông về tại Yi-Gah-Tscho-Ling và Tây
Tạng, qua Calcutta, báo chí tại đó đưa tin: “Một vị lạt ma nổi tiếng, được xem
như đứng hàng thứ tư sau Đại lai lạt ma, hiện đang ở Calcutta. Vị Géché
Rimpotsché cao quí hiện trên đường về Tây Tạng, sau khi đã chấm dứt chuyến hành
hương đến các thánh địa Phật giáo tại Bắc Ấn. Người ta cho rằng Ngài có nhiều
thần thông. Phần lớn thời gian của Ngài dành để học tập kinh điển, giáo hóa học
trò và thiền định. Ngài tránh đám đông, không bao giờ ra khỏi phòng và không
bao giờ ngủ. Ngài được một đoàn gồm bốn mươi vị lạt ma hộ tống. Các vị đó thăm
Sarnath, Gaya và Rajgir. Tại Sarnath các vị sống trong lều”.
Thông tin cho rằng Tomo Géché không bao giờ ngủ
dựa trên thực tế là ông - như đã nói - không bao giờ nằm ngủ, mà luôn giữ thế
ngồi thiền định suốt đêm, thế nên dù có ngủ ông cũng không mất sự điều khiển
thân mình. Vì vậy ngay cả giấc ngủ, theo phép tu thiền định cao nhất, cũng chỉ
là sự tiếp tục của một diệu pháp, nhưng ở trong một bình diện ý thức khác. Hiển
nhiên là không ai nghi ngờ Tomo Géché có trình độ tâm thức vượt hẳn so với
người thường không tu tập, nhưng chắc ông sẽ không nhận từ “thần thông” và nhất
là chống lại cách phổ biến như thế trong quần chúng. Khi giới ký giả vì tò mò
đã tìm cách hỏi ông về các năng lực siêu nhiên và các lễ nghi huyền bí của Phật
giáo Tây Tạng, ông chấm dứt câu chuyện và nói thêm những điều đó không có lợi
ích gì cho việc hiểu giáo lý căn bản của Đức Phật.
Thế nên giới ký giả đành ghi chép những chuyện
xảy ra bên lề của chuyến hành hương. Họ biết thêm rằng Sardar Bahadur Ladenla
là trưởng đoàn. Ông là người phục vụ cho Đại lai lạt ma thứ mười ba với nhiều cương vị khác
nhau và được Ngài trao tặng hàm của một tướng lãnh. Họ còn viết thêm là Tomo
Géché và Ladenla đã nạm vàng cho bức tượng Phật ở Sarnath và vị tiểu vương xứ
Bhutan đã gửi theo tặng một tấm vải bạc cho bức tượng.
Tôi tìm thấy các mẫu báo này trong nhật ký và bá
tước Veltheim-Ostrau, người được diện kiến Tomo Géché Rimpotsché tại Calcutta
ngày 2/2/1936. Vì quá nhiều người đến viếng, ông không nói
chuyện được với vị lạt ma. “Giữa đám đông người đến rồi đi, lạt ma như cái trục
của sự tĩnh lặng. Ông ngồi trên một tấm thảm, mỉm cười yên lặng. Vị này gây nên
một ấn tượng vô cùng cao quí, già dặn tri thức, như người đã đạt đến tình trạng
giải thoát”.
Và thực là như vậy; vì đây là giai đoạn cuối cùng
của đời Tomo Géché và nhất là sự chủ động bước qua một cuộc sống mới đã xảy ra
trong năm sau, điều đó nói lên ý nghĩa chữ “giải thoát” ở trên, đó là sự chiến
thắng thần chết.
Katschenla kể cho tôi nghe điều gì đã xảy ra
trong những ngày cuối đời của vị đạo sư; và về sau trong một chuyến thăm tại
Dungkar, tu viện của Tomo Géché tại thung lũng Tomo miền Nam Tây Tạng, tôi nghe
thêm chi tiết về cái chết của ông từ chính các tu sĩ có mặt lúc đó. Vị thầy
biết đến lúc đã phải rời bỏ tấm thân nay đã trở thành gánh nặng. “Nhưng”, ông
nói, “không có lý do để buồn phiền. Ta không rời các con, chẳng bỏ làm chuyện
đạo pháp. Nhưng thay vì kéo lê tấm thân già này, ta sẽ trở về thân mới. Ta hứa
với các con sẽ trở lại. khoảng ba bốn năm nữa các con có thể tìm thấy ta”.
Không bao lâu sau khi nói những lời này ông rút
vào phòng thiền quán và không cho ai được quấy rầy, mặc dù vẫn ở trong phòng
thường ngày của mình. Ông đi vào tình trạng nhập định sâu xa liên tục mấy ngày
liền. Sau mười ngày trôi qua và thấy ông vẫn bất động trên bồ đoàn, các tu sĩ
chuyên lo lắng cho ông bắt đầu thấy ấy náy. Một vị cầm một tấm gương đưa trước
mặt ông. Khi thấy gương không bị mờ, người ta biết hơi thở ông đã dứt. Vị đạo
sư đã từ bỏ thân mình ra đi trong lúc thiền định và chủ động bước qua ngưỡng
cửa sinh tử - hay đúng hơn: ngưỡng cửa của đời này và đời sau.
HÓA THÂN
Sự tạo dựng một hình ảnh sáng tạo, chứa mầm mống
của ý niệm cao đẹp nhất, đó là ý nghĩa đích thực của từ “Magie”, đó chính là
lực tạo tác, nó có thể sinh thành hay chuyển hóa sắc thể. Vì thế một ý niệm chỉ
có tác dụng khi nó phải được xuất hiện bằng một biểu tượng, biểu tượng đó không
chỉ là một dấu hiệu thông thường ẩn dụ văn thơ, mà là một biểu tượng có giá trị
nhất định, sinh động, cơ bản, đủ khả năng gây cảm thọ trực kiến nội tâm và
chứng nghiệm. Đó là lý do tại sao Phật giáo Tây Tạng lại quan tâm nhiều đến
linh ảnh và trực kiến về các biểu tượng của Phật quả - các biểu tượng đó cũng
nhiều như các tính chất của một vị giác ngộ - và sự quán chiếu các hình tượng
thờ cúng, man-da-la (linh phù), thần chú và các thứ tương tự. Tất cả những thứ
này không phải là ngoại vật để họ tôn thờ mà chủ yếu là phương tiện để quán
chiếu, qua đó mà hành giả trở thành đồng nhất với ý niệm của mình, bằng cách tự
chuyển hóa mình trở thành chính niệm, biến mình thành hiện thân của ý niệm.
Tại Tây Tạng, người ta biết đến một phép tu dành
cho những người biết giáo lý Bardo Thodol (nói về thân trung ấm, tức là dạng ý
thức giữa sống và chết hay giữa chết và sự tái sinh). Mục đích của phép này là
đi thẳng và trung tâm của tự tính chúng ta, đó là chỗ mà ý thức rút về khi cái
chết của thân thể trờ tới, nơi ý thức chứng nghiệm sự chuyển đổi từ đời nay qua
đời sau. Nơi đây không phải chỗ để soi xét lại quá khứ hay nhìn trước tương lai
mà là nhận thức và tri kiến trọn vẹn những mầm mống đang hiện tiền của các khả
năng sắp xảy ra. Ai nhận tức được tự tính đích thực của chúng, người đó sẽ làm
chủ những năng lượng tàng ẩn trong chúng và trong phút giây của sự chết có thể
lèo lái chúng, để khi chúng được giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thân cũ,
chủ dộng tiếp nối sức mạnh của chúng để đưa vào một thân mới.
Quá trình này được Tây Tạng gọi là “chuyển thức”
(hphoba). Đó là một hành động di chuyển ý thức, nó có thể xảy ra giữa hai cá
nhân đã phát triển toàn vẹn hay sự chiếu rọi ý thức của một người lên một mầm
sống vừa tượng hình trong lòng mẹ. Một sự tác động trực tiếp của ý thức lên ý
thức hay sự tập hợp tinh lực tâm linh dồn lên một sinh cơ nhạy cảm, sẵn sàng
cảm nhận mà bản thân nó chưa biết hoạt động chỉ thụ động nằm chờ; ngày nay dựa
trên kiến thức của kỹ thuật radio, mối liên hệ giữa máy phát và máy nhận ta có
thể hiểu được.
Nếu người bình thường hay chịu cái chết bất chợt
và bị nó áp đảo thì những kẻ đã kiểm soát được thân tâm đủ khả năng tự rút ra
khỏi thân thể mình, không phải chịu cái đau đớn vật vã chống lại cái chết và
ngay lúc đó cũng vẫn không mất sự làm chủ về thân mình.
Điều này được chứng tỏ trong cái chết của Tomo
Géché với bằng cớ là thân ông vẫn bất động trong thế ngồi thiền định sau khi
chết lâu cũng thế. Không ai biết rõ cái chết đến từ lúc nào. Có thể nhiều ngày
đã trôi qua khi người ta đưa tấm gương trước mặt ông. Cả tuần sau thân ông vẫn
yên thế, như H.E. Richardson, vị đặc mệnh người Anh tại Tây Tạng dã xác nhận.
Vài tuần sau khi nghe Tomo Géché chết, ông đi qua lũng, nơi có tu viện Dungkar
Gompa. Và vì đã quen vị Rimpotsché lúc còn sống, ông dừng chân, đi ngựa lên tu
viện nằm trên một đỉnh đá cheo leo giữa thung lũng phì nhiêu. Vị sư trưởng chào
ông trân trọng và Richardson chưa kịp nói lời chia buồn thì vị vấy nói
Rimpotsché vui mừng được tiếp ông. Hoàn toàn ngạc nhiên và nghĩ mình nghe tin
sai, khách liền theo chủ vào phòng Rimpotsché. Ông ngạc nhiên xiết bao khi vào
phòng thấy Tomo Géché ngồi yên trên chỗ thường lệ. Nhưng ông biết ngay đây chỉ
là cái xác ngồi trước mặt mình. vị sư trưởng thì hầu như nghĩ khác, vì ông hành
động y như vị Rimpotsché còn hiện tiền. Ông giới thiệu khách vào và mời ngồi.
Rồi ông nói - hầu như lặp lại tiếng nói của Rimpotsché - “Vị Ripotsché chào
mừng ông và hỏi ông đi đường ra sao, có khỏe mạnh không?” - Với cách này mà câu
chuyện diễn ra thực sự giữa Rimpotsché và Richardson, trong lúc đó thì trà vẫn
được dâng lên và tất cả mọi sự đều bình thường, đến nỗi người khách không tin
vào giác quan của mình nữa. Thật là một chuyện kỳ lạ và nếu Li Gotami và tôi
nghe chính Richardson nói, mà sau đó vài năm chúng tôi gặp lại ông tại Gyantse
thì chúng tôi ắt hẳn phải nghi ngờ.
Dĩ nhiên không phải vị sư trưởng cố ý đóng kịch
làm trung gian để tiếp xúc với thần thức Tomo Géché, ông làm trong niềm tin
tưởng rằng vị đạo sư đang hiện tiền. Bao lâu mà tấm thân thiêng liêng đã từng
chứa thần thức của ông duy trì - thì bấy lâu vị sư trưởng còn đối xử một cách
đầy kính trọng như thời vị đạo sư còn sống.
Đối với người phương Tây, thật khó mà hiểu tâm tư
của một người Tây Tạng ngoan đạo và lại càng khó hiểu thái độ của những kẻ mà
cái sống và chết không phải là hai thái cực mà chỉ là hai mặt của một thực tại
độc nhất. Từ thế đứng này, ta có thể hiểu được người Tây Tạng ít sợ chết hơn
phần lớn người khác. Khía cạnh cúng tế thần chết của tôn giáo thời tiền sử cũng
như di hưởng của nó trong truyền thống và lễ nghi của Phật giáo Tây Tạng -
trong đó biểu tượng của cái chết như sọ người, bộ xương, thây ma và mọi dạng
của nát rữa, sự hoại diệt… được ý thức - không phải phương tiện để xa lánh và
quay lưng với cuộc sống mà là cách để chế ngự các thế lực đen tối chúng diễn tả
mặt trái của đời sống.
Thân của lạt ma nổi tiếng (như Đại lai lạt ma và
Ban thiền lạt ma) không được thiêu đốt hay hủy diệt mà được thờ như xá lợi,
trong các đàn thờ dát vàng bạc mà ta gọi là Tschorten, được giữ lại cho hậu
thế. Một đàn thờ như thế được dành cho Tomo Géché và sự trang hoàng tuyệt đẹp
của đàn không phải chỉ là biểu tượng của sự chứng thực cao tột của ông mà còn
nói lên tình yêu thương và sự tôn quí của người Tây Tạng dành cho ông. Khi nghe
ông mất, hàng ngàn người xa gần đều đến Dungkar Gompa để tỏ lòng tôn kính lần
cuối và mang theo phẩm vật như vàng bạc và đá quý để xây đàn. Ngay cả những
người nghèo khổ cũng nhất định góp phần mình vào đó: nhiều người dâng tặng bông
tai có gắn đá xanh, nhẫn hay vòng đeo tay, kẻ khác dâng vật trang sức bằng san
hô hay vật dụng bằng bạc. Họ không tiếc gì công của để xây dựng một cái đàn
xứng đáng, để đời sau còn nhắc nhở đến vị đạo sư vĩ đại, để con cháu được hưởng
sự hiện diện tâm linh của ông. Lòng thiết tha và dâng cúng của tín đồ thật
không sao kể xiết. Vì tặng phẩm quá nhiều, ở dạng bảo vật, tiền bạc và đồ trang
hoàng nên người ta phải làm một cái đàn bằng bạc cao hai tầng, khắc họa mọi
hình tướng, dát vàng bạc, và đầy những thứ đá quý, san hô. Các thợ bạc khéo
nhất được triệu đến để hoàn thành một công trình mỹ thuật và hoàn hảo.
Phần dưới của đàn đủ lớn để tạo ra một không
gian, nơi đó đặt xác ướp của Géché cùng với mọi pháp khí để trên bàn thờ trước
thân ông, như lúc còn sống. Còn đàn thì được để trong một tòa nhà lớn xây lên
chỉ dành cho ông mà các vách tường xung quanh đều được tô vẽ bằng hình tượng
Phật, Bồ-tát và các vị hộ pháp đầy uy lực cũng như một số thánh nhân khác,
trong số đó có hình tượng của tám mươi bốn vị thành tựu giả (Siddha)
Trước khi thân ông được chính thức đưa vào an
nghỉ trong đàn thì một bức
tượng gần bằng người thật với thân người và nét mặt giống ông được hoàn thành
bởi các nghệ nhân truyền thống. Trong mỗi đền do Tomo Géché dựng lên và cai
quản đều nhận được một bức tượng đúc lại từ đó và thờ bên cạnh tượng Di Lặc.
Tượng Tomo Géché được trình bày với ấn giáo hóa, tay mặt đưa lên cao bàn tay
ngửa ra ngoài, như ấn vô úy của Phật Bất Không Thành Tựu, nhưng khác ở chỗ là
ngón tay cái và tay trỏ chạm nhau làm thành vòng tròn, ám chỉ sự giáo hóa của
pháp phi thời gian, từ đó mà sinh ra tri kiến vô úy.