Con Đường Mây Trắng - Chương 3 - Phần 2

SỰ TÁI SINH

Tomo Géché Rimpotsché hứa sẽ trở lại với tu viện
và học trò, trong vòng thời gian đã định, và ông giữ lời hứa.

Thế nhưng không bao giờ tôi ngờ sự tái sinh của
ông rơi vào đúng ngôi nhà mà tôi là khách khi lần đầu đến Tây Tạng, đúng ngôi
nhà mà tôi lại đến khi đi thăm vị ẩn tu ở Latschen: nhà của Entsche Kasi. Từ
chính miệng của Entsche Kasi tôi được nghe chi tiết về sự tái sinh của Tomo
Géché Rimpotsché cũng như sự tìm kiếm và thừa nhận, với sự hỗ trợ qua cuộc đại
vấn linh tại Netschung gần Lhasa.

Đối với tôi, Entsche Kasi là một người thành thật
và sùng đạo sâu sắc, nên tôi có thể bảo đảm cho những gì ông kể lại, với sự có mặt của Li Gotami. Mặc dù rất hãnh diện
là cha của một vị tái sinh, nhưng những gì ông kể đầy sự đau buồn vì sau khi
sinh không bao lâu thì vợ ông mất; và vài năm sau, sau khi rõ rằng đứa bé này
không ai khác hơn là Tomo Géché thì ông phải đưa đứa con trai độc nhất này cho
người khác. Chỉ vì bằng cớ lớn lao của việc này và cũng vì không muốn ngăn trở
tương lai của đứa bé, chỉ muốn “trở lại tu viện”, ông đành phải nhượng bộ và cho phép trẻ về tại Dungkar
cùng đi với các tu sĩ từ đó gửi đến.

Vị tiểu vương Sikkim cũng khuyên ông không nên
can thiệp vào tương lai cậu bé mà dã được cuộc đại vấn linh tại Netschung thừa
nhận và được chính những gì cậu nói cũng như toàn bộ hành động đã cho thấy.
Chính cậu nói mình không phải là người Sakkim mà là người Tây Tạng và khi cha
cậu gọi tên là “pu-tschung” (bé con) thì cậu phản đối nói tên mình là jigme (vô
úy). Đây đúng thật là tên mà cuộc vấn linh đã nhắc đến. Tomo Géché sẽ tái sinh.

Việc một cuộc đại vấn linh chính thức được triệu
tập chứng tỏ tầm quan trọng phải tìm ra hóa thân của Tomo Géché. Xem ra một
cuộc vấn linh nhỏ tại Dungkar không đủ sức cho câu trả lời; vì thế nên tăng lữ
tại Lhasa thấy khỏi hỏi thêm tại Netschung. Cuộc vấn linh tại đây không những
chỉ cho thấy phương hướng phải tìm trẻ nơi đâu mà còn mô tả khá rõ trẻ sinh ở
thành phố nào và cảnh vật gần đó ra sao. Nhờ những chi tiết đó mà không có nơi
nào khác ngoài Gangtok là đúng. Các thông tin khác cho biết thêm đứa trẻ sinh
năm nào, tuổi tác của cha mẹ; thậm chí mô tả ngôi nhà họ sống cũng như cây cối
mọc trong vườn. Hai cây ăn trái mọc trước nhà được nhắc tới như một dấu hiệu
đặc biệt.

Một phái đoàn gồm các tu sĩ già dặn đáng tin cậy
được cử đến Gangtok và nhờ những thông tin đó mà họ tìm ra đứa trẻ lúc đó đã
lên bốn. Khi các tu sĩ vừa bước vào vườn, tới gần nhà thì cậu bé đã gọi lớn: “Ba ơi, người của con đã tới tìm con rồi, để đưa
về tu viện”. Và cậu chạy lại đoàn người, nhảy nhót vui mừng - mà người cha thì
đau khổ không muốn mất con. Thế nhưng cậu bé van nài cha xin đi và khi các tu
sĩ đưa ra các pháp khí khác nhau như hạt, kim cương chử, tách trà, bình bát gỗ
để ăn uống, trống nhỏ và các vật dụng khác nhau của tu sĩ thì cậu không chút
chần chừ lựa ra những thứ của cậu trong đời trước, cũng như cương quyết từ chối
các vật khác không phải của mình mà người ta cố ý trộn lại với nhau để kiểm
chứng cậu. Mặc dù nhiều thứ “giả” đẹp hơn nhiều nhưng cậu không để nhầm lẫn.

Người cha đã thấy tất cả mọi minh chứng này và
nhớ lại nhiều dấu hiệu của sự thông minh khác thường cũng như những điều khó
hiểu của con mình, cuối cùng đã chấp thuận, mắc dù đau xót, cho cậu trở về tu
viện Tây Tạng, cùng với đoàn tu sĩ.

Trên đường về Dungkar Gompa, đoàn gặp Amtschi,
người thầy thuốc Tây Tạng dã chăm sóc Tomo Géché trong những năm cuối cùng của
ông. Cậu bé nhận ra ông và gọi: “Ô, Amtschi, ông không nhận ra tôi sao? Ông không nhớ đã săn sóc tôi khi
tôi bị bệnh trong thân trước sao?”.

Tại Dungkar, cậu cũng nhận ra vài vị sư già và -
điều rất đặc biệt - con chó nhỏ ngày trước cứ theo chân ông trong những năm
cuối đã nhận ra cậu ngay và hết sức vui mừng được gặp chủ.

Như vậy là Tomo Géché đã giữ lời hứa và mọi người
xa gần lại đổ về Dungkar Gompa để bày tỏ niềm kính trọng với vị đạo sư và xin
phước lành. Ai gặp cậu bé cũng bị ấn tượng bởi thái độ vững vàng và cao quý của
cậu, lúc cậu ngồi trên tòa trong chính điện, hướng dẫn lễ nghi và tụng niệm
trong các dịp cũng như tiếp khách hành hương và ban phép cho họ - trong lúc ở
mọi phương diện khác thì cậu cũng hồn nhiên như mọi đứa trẻ cùng tuổi khác. Thế
nhưng trong hành động lễ nghi tôn giáo thì cậu có khuôn mặt của một người đàn
ông đầy minh triết già dặn, xuyên qua những nét trong sáng ngây thơ của trẻ
con. Và không bao lâu sau người ta rõ cậu không hề quên những kiến thức của
mình tập hợp trong đời trước. Sự giáo dục chỉ là ôn lại, đưa những gì đã biết
vào trong trí nhớ. Cậu học nhanh đến nỗi mà các thầy giáo không biết dạy thêm
gì nữa. Vì lý do này mà lúc lên bảy cậu được đưa về Sera, một trong những đại
học tôn giáo gần Lhasa để học công trình cao cấp và lấy bằng tiến sĩ (Géché).

Tất cả những điều này đối với đầu óc phê phán của
phương Tây hẳn khó tin và tôi cũng phải thừa nhận rằng khó tin ngay đối với tôi
nếu chưa từng gặp nhiều trường hợp tương tự đã làm tôi thấy rằng, ý niệm tái
sinh không phải chỉ là một lý thuyết hay lòng tin vô căn cứ. Những trường hợp
đó cũng là bằng cớ cho thấy ta có thể nhớ lại nhiều chi tiết và thành tựu trong
đời quá khứ. Nhà khoa học, người chỉ tin nơi thuyết di truyền, xem ra không bao
giờ hỏi, thực tế di truyền là cái gì. Đó chính là nguyên lý của sự bảo toàn và
liên tục của những tính chất, nguyên lý do đúc kết lại trong khả năng nhớ và
chủ động bày tỏ ý muốn và quyết định hướng đi của mình, dưới sự chỉ đạo của ý
thức và kinh nghiệm. Vì thế, di truyền chỉ là một tên khác của ký cơ sở, đó là
nguyên lý giữ được tính bảo toàn, sự thăng bằng, nó là lực chống lại sự hoại
diệt, cái bấp bênh. Liệu ta gọi tên “ký ức” là một tính chất của tâm, của vật
hay là một nguyên lý sinh vật, điều đó không quan trọng gì, vì “vật chất”, hay
“sinh vật” hay “tâm thức” chỉ là những tầng mức khác nhau mà nơi đó cái lực duy
nhất này tác dụng và biểu hiện. Điều quan trọng là nó cũng là lực sinh ra và
giữ một hình tướng, nó là khâu nối kết giữa quá khứ và tương lai, nó hiện ra
ngoài thông qua cách chứng nghiệm cái hiện tại và ý thức về sự hữu hiện của
mình. Tính đồng thời giữa bảo toàn và sáng tạo được bảo đảm bừng một quá trình
của sự chuyển hóa liên tục, trong đó những yếu tố chủ yếu hay nguyên lý về sắc
thể cũng được bảo toàn, nó như một hạt nhân, từ đó mà các dạng hình mới mẻ cứ
hiển hiện, vừa tuân thủ qui luật nội tại của mình, vừa chịu ảnh hưởng của bên
ngoài.

Ngay cả khi ta xét tính di truyền sinh học, vì
cha mẹ cho con cái “chất liệu” để thành thân mới, thì thân này cũng không có
khả năng cản năng lực của ý thức nọ. Điều này càng được thấy rõ hơn khi năng
lực ý thức đó cần phải ăn khớp với tính chất di truyền của cha mẹ và trong nhiều
trường hợp đặc biệt nó tổng hòa với nhau để sinh ra một đơn vị mới (như trong
phút giây tượng hình).

Ý thức là một dòng chảy sinh động, không chịu để
mình ép mình trong bình chứa chật hẹp của một cái ngã, vì tự tính của nó là vận
động, là tuôn chảy; và sự tuôn chảy đồng nghĩa với sự liên tục và sự quy định,
đó là mối liên hệ giữa hai trạng thái hay hai cực. Không có tính đối cực này
thì không thể có đời sống, cảm thọ - và không có sự liên tục thì cũng chẳng có
mối liên hệ. Hai cực này càng xa nhau, càng rộng mở thì dòng chảy càng mạnh mẽ
cũng như sức tạo nên dòng. Ý thức cao tột là sản phẩm của những kinh nghiệm rất
khác nhau, của biên độ dao động rất lớn giữa tính vũ trụ và tính cá thể.

Thế nhưng ý thức thông thường hay chỉ được hạn
chế trong vòng vây nhỏ bé của ước mơ và mục đích có tính thời gian, thế nên
dòng chảy to lớn kia bị kiềm hãm, bị chuyển hướng và năng lượng của nó bị phí
phạm với hậu quả là ánh sáng nhận thức toát ra từ đó bị mờ đục. Thế nên khi cá
thể đánh mất mối liên hệ đầy ý thức với trung tâm vạn năng của nó và lấy tính
cách giới hạn của mình làm trung tâm, bằng cách bám chặt sự hiện hữu nhất thời
này, thì điều đó sẽ sinh ra một ảo giác về một tự ngã độc lập, không thay đổi,
cái đó sẽ đi ngược dòng của đời sống và ý thức to lớn hơn và dẫn đến sự trì trệ
tâm linh. Phương thuốc chữa căn bệnh này không phải là sự đè nén cái cá thể
(nếu thế là qua thái cực kia) mà là tri kiến nhận biết rằng, cái cá thể không
phải là cái ngã (nói theo nghĩa trên) và rằng sự biến đổi là một điều kiện tự
nhiên và cần thiết của mọi cuộc sống, nó không hề tùy tiện hay vô nghĩa, mà dựa
trên một qui luật nội tại và có tính bao trùm, chính qui luật đó bồ đề sự liên
tục và tính ổn định nội tại của vận động.

Cá thể không những là phần cần thiết và bổ túc
của cái toàn thể mà chính là tiêu điểm, nơi đó cái toàn thể được chứng thực. Sự
tiêu diệt cá thể, tức là phủ nhận giá trị của nó, một cách triết học hay đạo
lý, chỉ dẫn đến một tình trạng vô phân biệt và hủy diệt, tình trạng tuy có thể
giải thoát được cái khổ, nhưng chỉ là sự tự phủ nhận vì nó tước đoạt khả năng
phát triển cá thể sắp tới: đó là sự chứng nghiệm của giác ngộ hoàn toàn, của sự
trở về nhất thể, của Phật quả mà trong đó cái toàn thể trong tự tính của ta sẽ
được chứng nghiệm.

Khi nói “trở về với cái toàn thể, như giọt nước
trong biển cả” mà không chứng thực cái toàn thể, thì chẳng khác gì cách nói văn
vẻ về sự hoại diệt hoàn toàn và tránh né vấn đề của tính cá thể đặt cho ta. Tại sao cái toàn thể lại sản sinh ra
đời sống và ý thức cá thể, nếu những điều này không tương thích với tự tính sâu kín của cái toàn thể hay không chứa
cái “thức tự nhiên”? Cũng vẫn câu hỏi đó nếu ta nhìn vũ trụ bằng con mắt của
nhà khoa học, xem nó như đối tượng khách quan toàn những năng lực vật lý, hay
với con mắt của người theo đạo Phật, xem nó là hiện thân hay sự chiếu rọi của
năng lực tâm thức, nó phải được chứng nghiệm một cách chủ quan là a-lại-da
thức. Chỉ riêng sự hiện hữu cá thể của chúng ta, đủ cho thấy nó phải có chỗ
đứng đầy ý nghĩa trong vũ trụ chứ không phải là một tình cờ đáng tiếc hay một
sự nhầm lẫn, một ảo giác cần phải bỏ qua một bên - nếu nói thế người ta sẽ hỏi
ảo giác của “ai”?

U KHANTI: NHÀ TIÊN TRI TRÊN NÚI MANDALAY

Lúc hành hương tại Myanmar năm 1929, tôi lưu lại
một thời gian nơi Mandaya cùng với Thượng tọa Nyanatiloka Mahathera, vị trưởng
môn của tu viện Polagsduwa ở Dodanduwa tại Sri-Lanka, nơi tôi nhập môn tu hành.
Sau khi tôi đến Rangoon khoảng hai tuần thì Nyanatiloka Thera cũng đến, để cúng
thầy của ông là U Kumara Mahathera, người vừa mất một thời gian ngắn trước đó
trong một tu viện nhỏ tại Kyundaw Kyaung. Nyanatiloka Thera là người trở thành
tì kheo cách đó hai mươi sáu năm trong chính tu viện
này. Thân của thầy ông được đặt trong một quan tài bằng gỗ tếch, được bảo vệ
bởi hình long vương chạm gỗ tinh vi. Quan tài chứa đầy mật để giữ cho thân
người chết được lâu cho đến lúc cử hành tang lễ thiêu xác. Theo truyền thống
của Myanmar thì thời gian chuẩn bị này có thể kéo dài hơn một năm, và vì chúng
tôi không thể đợi lâu như thế nên Nyanmar. Sau hai tuần trên một thương thuyền
(như một khu bán hàng trên biển) đi về phía Bắc và giữa đường có ghé thăm vùng
Pagan cổ với hàng ngày đền thờ và chùa chiền, chúng tôi dừng chân ở Mandalay,
từ đó đi thăm các thánh tích tôn giáo và lịch sử.

Thánh tích lớn nhất tại Mandalay là một ngọn núi
đá, núi vọt lên cao từ bình nguyên gần đô thị. Núi này đầy những đền đài, chùa
tháp, đàn tế và các tòa nhà khác, chúng được nối với nhau bằng lối đi, bậc
thang có mái che, kéo dài từ chân đến ngọn. Khi ta đến gần chân núi, nổi bật
nhất là hai cụm gồm hàng trăm ngôi chùa bé (kể chung khoảng một nghìn rưỡi ngôi
chùa), nằm quanh một ngôi chùa trung tâm.

Nguồn gốc của công trình kiến tạo to lớn này là
thời gian vua Mindon Min, trị vì Myanmar từ 1835 đến 1878. Cảm kích từ một giấc
mơ, ông bỏ kinh đô cũ Amarapura, xây dựng Mandalay với những cung điện xinh đẹp
và các công trình tôn giáo. Là một Phật tử thuần thành, ông muốn đi theo con
đường của vị vua trước, người cho khắc giáo pháp của Phật lên bảng vàng được
cất giữ trong một ngôi đền đồ sộ. Thế nhưng điều này sinh lòng ham muốn nơi
người Trung Hoa, họ xâm chiếm xứ này và lấy theo các bảng đó. Vì thế vua Mindon
Min mới cho khắc họa kinh sách lên bảng đá, chúng không khêu gợi lòng tham của
ai, của quân lính ngoại xâm lẫn kẻ cướp thông thường, nhờ thế mà giữ được giáo
pháp của Phật cho các đời sau. Kinh sách đó cũng phải đến được với tất cả mọi
người, không những chỉ cho học giả hay tu sĩ. Vì thế mỗi bảng đá được dựng
trong một khám thờ riêng biệt, mở cửa, với dạng một chùa bé, trong đó tín đồ có
thể đọc từng phần của kinh sách, không những bằng tiếng Pali mà cả bản dịch ra
tiếng Myanmar.

Thế nên nhà vua cho xây chùa Kuthodawu với 799
ngôi chùa bé xung quanh, mỗi ngôi được kiến trúc hết sức tỉ mĩ, trong đó có một
bia đá hai mặt, ghi lại các bài kinh thiêng liêng của đại tạng. Lẽ ra phải có
thêm một cụm toàn những chùa như thế được xây lên để ghi lại các bộ luận, nhưng
nhà vua đã từ trần trước khi bắt tay vào việc. Người kế vị là vua Thibaw chỉ
quan tâm đến một cuộc sống vương giả và hầu cận với nam nữ. Cuối cùng ông bị
người Anh loại bỏ, họ chiếm nước ông làm thuộc địa sau một cuộc chiến ngắn.
Công trình của vua Mindon Min bị rơi vào quên lãng và các đền tháp thiêng liêng
cũng trở thành hoang phế. Chỉ một số ít người hành hương mới dám đến đây một
nơi không còn an toàn vì giặc cướp.

Nhưng một ngày nọ, có một người hành hương cô độc
lên núi, mang đầy đạo tâm. Ông lấy làm tiếc trước cảnh hoang tàn của các thánh
địa - mà theo lòng tin của người Myanmar thì Đức Phật đã từng đến đây - và
quyết tâm lấy đời mình ra để phụng sự núi này và sẽ không rời núi trước khi núi
lấy lại danh tiếng như cũ. Mặc dù người hành hương này không có gì hơn ngoài
bình bát và chiếc áo đỏ đậm của một nhà tu khổ hạnh, ông có một niềm tin vô hạn
nơi sức mạnh của tâm linh và không chút lo lắng rằng lấy đâu phương tiện để
thực hiện mục đích của mình. Ông kiếm một chỗ ngồi trên đỉnh núi, dưới một
thánh thất đổ nát và bắt đầu thiền định, không cần biết đến sự an toàn hay ăn
ngủ của mình. Không ai cướp bóc được gì của ông vì ông không có gì để lấy.
Ngược lại những người hành hương khác, khi thấy ông thiền định, họ lại chu cấp
thực phẩm cho ông. Khi không ai đến (thực tế là ít người dám đến) thì ông nhịn
đói; khi có thức ăn thì ông ăn. Thế mà dần dần càng có nhiều người thêm can đảm
leo lên núi, khi họ nghe có một vị độc cư sống trên núi, trong một đền thờ
hoang phế.

Sự hiện diện của ông hầu như làm cho chốn hoang
tàn này thiêng liêng trở lại và không bao lâu sau người ta bắt đầu sửa các đàn
cũ, dựng đàn mới, kể cả các nơi lưu trú cho khách hành hương được thiền định và
nghỉ ngơi. Vì thế qua thời gian, các đền đài, chùa chiền, tượng tháp, nhà cửa
và các lối đi có mái che được xây dựng. Công trình càng phì nhiêu thì phương
tiện vào các tu sĩ độc cư càng lớn, họ thấy vật đó không phải là của mình, thế
nhưng hầu như tất cả của cải thế gian đã tụ lại cho ông. Sau khi lấy lại danh
tiếng cho thánh địa của núi Mandalay, ông cũng chưa hài lòng mà bắt đầu một
công trình lớn hơn nhiều, đó là công trình dang dỡ của vua Mindon Min, ông muốn
ghi lại các bộ luận lên đá trong một cụm chùa thứ hai lớn hơn nữa.

Sau khi U Khanti, người ẩn tu tại núi Mandalay,
mà bây giờ trở thành Maha-Hathi, nhà đại tiên tri (rishi), đã thành tựu công
trình đó, ông tự nhủ như thế cũng chưa đủ khi khắc họa kinh sách trên tảng đá
để trường tồn với thời gian và dành cho những ai đến viếng chùa đều được đọc,
mà còn cần phải phổ biến kinh sách của Phật ra cho cả thế giới, bằng cách in
lại toàn bộ đại tạng và các bộ luận quan trọng. Đây là một công trình đồ sộ mà
không nhà in nào, nhà xuất bản nào đám chịu phí tổn và thi hành. Thế nhưng điều
này cũng không làm nhà đại tiên tri ngán sợ. Sức mạnh của ông hầu như vô tận.
Trong vòng một thời gian ngắn đáng ngạc nhiên, ông xây nên một cơ sở in ấn ngay
dưới chân núi với phương tiện hiện đại và tìm được một nhóm người hợp tác. Lúc
này Nyântiloka Thera và tôi tới núi Mandalay thì phần lớn kinh sách đã được in
xong và phổ biến rộng rãi dưới dạng sách đóng gáy chắc chắn, đàng hoàng. Ngay
tại Sri-Lanka là nơi sản xuất kinh sách khá tốt, nhiều bản kinh Pali quan
trọng, nhất là các bản của A-tì đạt-ma (Abhidhamma - Thắng luận) cũng không có
được.

Khi nghe đến công trình tốt đẹp của Ukhanti,
chúng tôi không khỏi mong được làm quen với ông và một sáng nọ, chúng tôi tìm
đường đến thăm ông tại núi Mandalay. Vì ở ngoài thành và khá xa ngọn núi thiêng
đó, chúng tôi buộc phải đi xe ngựa. Khi chúng tôi đến nơi, người ta báo sáng
sớm nay ông đã rời núi, đến một nơi cách đó khoảng hai mươi, hai mươi lăm dặm để hướng dẫn công cuộc
trùng tu một di tích cổ Phật giáo.

Chúng tôi hết sức thất vọng, không biết bao giờ
mới được trở lại đây vì có một chương trình làm việc đầy ngập, mỗi ngày đầy
những thăm viếng, thảo luận, diễn giảng, tiếp khách. Chúng tôi chần chừ lên xe
và lúc xe chưa kịp quay đầu thì một chiếc ô tô chạy lại, ngược chiều với chúng
tôi và đậu trước hành lang để mái che dẫn lên núi. Một dáng người cao lớn, mặc
áo choàng đỏ bước ra khỏi xe. Nơi người đó toát ra một ấn tượng sâu đậm với một
trong dáng đi ung dung quí phái, với phẩm cách tự nhiên của một nhà vua. Chúng
tôi biết ngay người này phải là nhà đại tiên tri. Chúng tôi liền dừng xe ngựa,
nhảy xuống đi đến cửa và được nồng hậu cho hay rằng U Khanti đã bất ngờ trở lui
và chúng tôi được dịp gặp ông. Chúng tôi được đưa vào một đại sảnh và được nhà
tiên tri tiếp đón với một số tỷ kheo và cộng sự của ông. Một lần nữa chúng tôi
lại thấy nhân cách của ông vượt hẳn những người xung quanh, và mặc dù ông là
thành viên của tăng già (Thượng tọa bộ) nhưng được các vị đó kính trọng - các
người được xem là giữ gìn ngôn từ của Đức Phật - ông được các vị đó xem tôn quí
hơn trong hàng ngũ giáo hội.

Ông cười thân thiện thăm hỏi và cuối đầu lễ độ
trước Nyanatiloka, - vị thượng tọa của giáo hội - và mời chúng tôi ngồi, cho
mang trà và bánh vào. Có lúc ông phải trả lời vài câu hỏi của thư ký, họ mang
các giấy tờ cho ông hoặc nghe các chỉ thị của ông. Những điều này xảy ra một
cách nhẹ nhàng thoải mái nên ông vẫn quan tâm đến chúng tôi, vì thế câu chuyện
cũng không bị đứt đoạn. Ông tỏ vẻ đặc biệt quan tâm về việc Tổng hội Phật giáo
thế giới vừa được thành lập mà Chủ tịch chính là Nyanatiloka, còn tôi làm tổng
thư ký. Khi nói về kế hoạch của chúng tôi, biến “di tích Dodan-duwa” thành một
trong tâm quốc tế cho văn hóa Phật giáo và sự cần thiết phải đưa kinh sách Phật
giáo tới với con người thì tôi định nhắc tới quan tâm đặc biệt của mình về bộ
luận A-tì-đạt-ma và cũng khó tìm ra kinh sách đó. Người đó biến đi trong một
căn nhà bên cạnh mà sau tôi biết đó là nhà in và đóng sách. Chỉ vài phút sau
ông trở lại với một chồng sách trên tay. “Đây là quà cho các vị”, nhà tiên tri
cười nói với chúng tôi và cho người hầu đặt sách trước mặt. Làm sao chúng tôi
mô tả được sự kinh ngạc của mình? Đó chính là các cuốn mà chúng tôi thiếu trong
tủ sách: một bộ luận hoàn chỉnh của A-tì đạt-ma. Chúng tôi hết sức ngỡ ngàng và không nói nên lời
về khả năng của ông đọc được ý nghĩ thầm kín của mình và về lòng tốt của ông
khi tặng món quà quý báu này.

Khi thấy niềm vui này, ông sẵn sàng tặng thêm các
bộ sách khác có trong nhà in, với gáy da, chữ mạ vàng. Thế nhưng số lượng sách
quá lớn đến nỗi chúng tôi không chất lên xe ngựa nổi nên ngày hôm sau phải chất
lên một chiếc xe khác. Dựa trên báo chí nói về hoàn toàn của chúng tôi tại
Mandalay thì trị giá những sách mà chúng tôi nhận được từ vị đại tiên tri này
lên đến 700 ru-pi mà ngày nay trị giá của chúng không dưới 3000 ru-phi Ấn Độ.
Thật là một món quà vương giả, không làm sao chúng tôi nói hết sự xúc động của
mình.

Sau khi từ biệt ông, chúng tôi được một vài tỉ
kheo hộ tống qua vô số đàn trường và đền thờ của ngọn núi thiêng này để có một
ý niệm về cái vĩ đại của công trình mới đây và nó cũng chỉ mới là một phần nhỏ
công sức của con người lạ lùng này. Trong câu chuyện với các tỉ kheo thì một vị
mới cho hay là sáng nay thật ra vị ẩn tu đã rời núi để đến xem xét một công
trình đang tu sửa. Thế nhưng đang kiểm tra công việc thì ông bỗng dưng nói phải
về lại ngay Mandalay vì có khách phương xa đến thăm. Và không chút chần chừ ông
nhảy lên xe, bảo tài xế chạy về càng nhanh càng tốt. Và hầu như thấy hết trước
mọi việc, ông đến chân núi Mandalay, thì chúng tôi vừa định quay về.

*

* *

Bây giờ chúng tôi rõ cuộc gặp gỡ này không hề là
sự tình cờ và khi nghe chúng tôi thú thật mình ngạc nhiên xiết bao khi vị tiên
tri đọc được ý nghĩ của mình về các tập sách thì vị tỉ kheo nọ mới nói với
giọng run run: “Các vị không biết ngài là ai sao? Ngài là tái sinh của vua
Mindon Min”.

Tôi phải thú nhận là không có chút nghi ngờ gì về
sự thật của câu nói này, vì nó chỉ xác nhận lại cảm giác của mình khi thấy điệu
sang trọng của nhà tiên tri khi gặp ông lần dầu. Cách xuất hiện của ông có một
cái gì vương tước, làm nảy sinh lòng kính trọng. Thái độ, hoạt động và nhân
cách của ông đối với tôi là minh chứng lớn nhất cho một mối liên hệ chủ động
với một tiền kiếp đáng kính, hơn mọi chứng minh có tính chất “bằng cớ” khác.
Cuộc đời và hoạt động của ông cho thấy rõ rệt rằng ông có một năng lực phi
thường về tâm linh. Sự nhớ lại tiền kiếp và mục đích của đời sống cũ đã làm cho
ông một sức mạnh, sức mạnh này đã làm cho đời sống mới thêm ý nghĩa. Sự hiểu
biết quá khứ của mình đối với ông không là gánh nặng vô bổ mà là động cơ mạnh
mẽ để hành động, nó răng cường thêm tinh thần trách nhiệm về một công trình
dang dở của đời sống cũ để lại. Đó như sự hoàn thành ý nguyện của một vị Bồ-tát, người giữ được sự liên
tục của ý thức siêu việt lên sống chết, dựa trên một mục đích dài hơn đời một
con người. Mục đích
cao cả của ta là tinh tấn vươn lên tự thắng mình và đạt đích tối thượng là sự
giác ngộ hoàn toàn, đó là điều làm ta bất tử - chứ không phải là đời sống của
một linh hồn đơn lẻ bất biến, mà cái đơn điệu của nó loại ta ra khỏi sự sống và
tăng trưởng, không cho tâm hồn tham dự vào cuộc sống phiêu lưu bất tận, giam
giữ ta trong tù ngục của giới hạn chính mình.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3