Con Đường Mây Trắng - Chương 3 - Phần 3

MAUNG TUN KIAING

Sớm hơn dự định, tôi đến với một trường hợp khác về nhớ lại tiền
kiếp, một trường hợp đặc
biệt vì ở đây có nhiều cách để kiểm chứng sự thật - mặc dù bản thân tôi không
mấy quan tâm. Sự tái sinh có thể chứng minh được hay không? Ý niệm tái sinh đối
với tôi tự nhiên và đáng tin hơn mọi lý luận, nó cho đời sống cá nhân một ý
nghĩa sâu xa hơn và nó ăn khớp
vào với quá trình tiến hóa của sinh vật, như những phát hiện của sinh vật tâm
lý học cho thấy.

Tại Maymyo, trong cung điện mùa hè của chính phủ
Myanmar hồi đó ở các tiểu bang miền Bắc, nơi mà Nyanatiloka và tôi tránh cái
nóng của xứ Mandalay chúng tôi nghe đến một cậu bé tên là Maung Tun Kyaing, cậu
nhớ mọi chuyện của tiền kiếp, đến nỗi thống đốc Myanmar, Sir Henry Butler mời
cậu về nơi ở của mình tại Maymyo để biết cho rõ về hiện tượng lạ này. Cậu gây
một ấn tượng tốt đẹp lên vị thống đốc và tất cả những ai có mặt trong buổi
phỏng vấn đáng nhớ này đều thừa nhận là tất cả đều khuyên cậu nên truyền khắp
nơi thông điệp tốt đẹp này, kể cả đi thăm viếng các trại tù để mang lại ánh
sáng và hy vọng cho những ai phải sống trong cảnh tối tăm. Kể từ lúc đó cậu đi
từ nơi này qua nơi khác và hàng nghìn người ham thích lắng nghe những lời cậu
nói.

Lúc đó thì không ai biết cậu ở đây và tôi thì đã
quyết định đi ngược lên miền bắc, qua bắc Myanmar để đến Trung Quốc (Vân Nam),
nên tôi từ giã Nyanatiloka khả kính, trở lại Mandalay và đi bằng tàu thủy chạy
bằng hơi nước ngược lên Bhamo, nơi mà các đoàn người ngựa phát xuất đi Vân Nam.
Trong một tu viện nhỏ gần một ngôi chùa tôi tìm được chỗ nghỉ và nơi đó tôi căng
chiếc giường dã chiến, ngủ trong chính điện.

Sau khi ở trên boong tàu đầy người, chúng tôi
sống như trong một đại gia đình thì bây giờ có cảm giác thật kỳ lạ; bỗng nhiên
ở một mình trong một căn phòng tối và rộng, trong đó có ba tượng Phật bằng đá
trắng với miệng cười như nhau nhìn xuống tôi. Trước khi đi ngủ tôi hỏi thăm giờ
giấc vì đồng hồ đã đứng do lên giây. Thế nhưng không một nhà sư nào biết nói
tiếng Anh và xem ra trong điện chẳng có cái đồng hồ nào, nên không ai giúp tôi
được.

Sáng hôm sau khi tôi ngủ dậy và thấy xung quanh
toàn những người, tôi không biết mình đã ngủ bao lâu. Vài người trong số đó
mang theo thau đựng nước, khi tôi chưa hiểu gì cả thì họ đã đi nhanh đến tượng
Phật và tạt mạnh vào tượng. Tưởng chừng như điện đang có đám cháy. Tôi không
hiểu họ hành động kỳ lạ như thế với mục đích gì và cũng đang lo mình sẽ cùng
chung số phận bị tạt nước như Phật. Nhưng may thay họ biến mất, không chút gì
để ý đến tôi.

Về sau tôi mới biết đó là ngày “lễ nước”, theo lệ
thì họ “tắm Phật” và ngoài đường người ta xịt nước lẫn nhau - chỉ những người
mang áo vàng mới được tha. Xem ra nhờ chiếc áo vàng mà tôi đỡ phải nước lạnh.
Thế nhưng tôi tự nhủ cần chuẩn bị những bất ngờ xảy ra. Điều bất ngờ quả nhiên
đến với tôi: một người thợ đồng hồ, ông bảo đến để sửa đồng hồ cho tôi. Ông bảo
phải đi từ phố đến cái đền xa xôi này vì được nghe là chiếc đồng hồ tôi bị hư. Khi tôi bảo đó chỉ là sự hiểu
lầm và chiếc đồng hồ chạy bình thường thì ông cười vui vẻ và cho hay không tiếc
công đi vì nhờ đó mà ông có dịp làm quen với tôi. Tôi cũng nói với ông là tôi
rất thích đã tìm ra người nói được tiếng Anh.

Qua tuần trà, chúng tôi nói chuyện vui vẻ, trong
câu chuyện tôi có nhắc đến Maung Tun Kyaing và bày tỏ hy vọng một ngày nào đó
sẽ gặp được cậu. “Không có gì dễ hơn”, người thợ đồng hồ nói, “Maung Tun Kyaing
hiện đang ở Bhamo và hôm nay sẽ nói chuyện trong một tu viện, không xa đây bao
nhiêu”.

“Thật là trùng hợp hy hữu’, tôi kêu lên, “hành
trình của tôi hôm nay dẫn tôi đến đây mà không hề biết Maung Tun Kyaing hiện
đang ở vùng này. Hầu như tôi chỉ mong ước là đủ để thành sự thực”.

“Chắc rồi”, ông nói, “đó là sức mạnh của sự mong
ước chính đáng, sức mạnh đó sẽ đưa ta đến đúng chỗ. Không có gì quá trình xuất
hiện trong đời một cách tình cờ cả. Tôi nghĩ rằng sự gặp gỡ của chúng ta, dù do
hiểu lầm, cũng không phải tình cờ mà là một khâu cần thiết để thành tựu mong
ước của ông”.

“Ông có lý”, tôi thừa nhận, “và tôi hết sức cám
ơn ông đã đến đây và báo cho tôi tin này”.

*

* *

Khi tôi đến tu viện nơi Maung Tun Kyaing đang lưu
trú thì cậu sắp diễn giảng trước một đám đông đứng chật sân viện. Thật là lạ
khi thấy một cậu bé nói trước thính giả với sự ung dung và tự tin của một diễn
giả chuyên trách. Khuôn mặt cậu ngời sáng, giọng cậu trong trẻo và có âm điệu
như tiếng chuông. Mặc dù không hiểu một chữ cậu nói, tôi cũng rất vui thích
được nghe, giọng cậu như toát ra từ trái tim, nghe nhe tiếng chim hót. Sau buổi
diễn giảng được mọi người chăm chú lắng nghe, người ta đưa tôi đến gặp cậu, cậu
được người cha và một cậu em đi cùng. Cả hai cậu bé đều mặc áo vàng, mặc dù số
tuổi thiếu niên, cả hai cậu vẫn chưa gia nhập tăng đoàn. Nhìn bề ngoài thì
Maung Tun Kyaing xem ra chưa tới sáu tuổi, em cậu chắc khoảng năm tuổi. Người
ta bảo với tôi rằng Maung Tun Kyaing lên tám và cậu em lên bảy. Thế nhưng giữa
hai cậu khác nhau biết bao. Cậu em nhìn giống như bất kỳ đứa trẻ nào khác cùng
tuổi; Maung Tun Kyaing thì ngược lại, có một vẻ đẹp khác thường. Ít khi tôi bắt
gặp biểu hiện một sự thông minh và sinh động cao độ như thế, hòa lẫn với sự
thanh tịnh và sức tỏa sáng trên khuôn mặt con người. Cậu không chú e dè khi tôi
xem các dấu hiệu tốt đẹp trên người cậu mà người cha chỉ cho tôi thấy, thông
qua một người thông dịch. Cậu trả lời mọi câu hỏi của tôi không chần chừ và với
sự cởi mở tự nhiên.

Câu chuyện về đời cậu được người cha kể lại, một
người đơn giản, cởi mở và được Maung Tun Kyaing cũng như những tu sĩ và cư sĩ
có mặt công nhận. Câu chuyện này đối với tôi là bằng chứng thú vị nhất và quan
trọng nhất cho ý niệm của sự tái sinh và khả năng nhớ lại tiền kiếp. Cũng may
là tôi có sẵn giấy bút để ghi lại mọi điều của cuộc phỏng vấn, cách đây đã ba mươi tư năm. Câu chuyện như sau:

Maung Tun Kyaing là con một người đan chiếu
nghèo, không biết đọc cũng không biết viết. Lúc lên bốn, người cha mang cậu và
đứa em ra chợ phiên ở làng bên cạnh. Khi họ đến gần làng thì gặp một người vai
mang một bó mía, đem ra chợ bán. Người đó thấy hai đứa trẻ, có lẽ anh nghĩ rằng
người cha không mua được gì cho con nên tặng mỗi đứa trẻ một khúc mía. Trong
lúc đứa em mừng rỡ vội ăn mía thì Maung Tun Kyaing nhắc em trước khi ăn phải
cám ơn người cho hoặc chúc lành người đó (Sukkhi hotu là cách nói theo tiếng
Pali mà các tu sĩ hay nói). Khi cậu nói với em điều đó thì dường như cánh cửa của trí nhớ tiền kiếp bỗng mở
toang và dưới ảnh hưởng của ký ức ào ạt, cậu nhờ cha nâng mình lên vai và nói
về hạnh bố thí (một trong những hạnh quá trình của Phật giáo). Người cha vui
lòng mỉm cười làm theo, cho đó là chuyện trẻ con. Thế nhưng trước sự ngạc nhiên
của ông và mọi người chung quanh, cậu bắt đầu giảng về hạnh bố thí theo một
cách mà không ai có thể làm hoàn hảo hơn. Càng lúc càng có nhiều người tụ tập
để nghe người
giảng pháp trẻ tuổi này, người cha bối rối không biết làm sao với sự thay đổi
đột ngột của con mình. Cậu bé thì thản nhiên như không và nó với cha sau bài
giảng: “Thưa cha, ta hãy đến tu viện con”.

“Con nói gì, tu viện của con?”

“Đó tu viện đó, cha không biết sao?”

“Ta không nhớ là con từng đến đó”, người cha đáp,
“nhưng ta cứ đến đó xem sao”.

Khi họ đến tu viện thì gặp một nhà sư già, đó
chính là vị tu viện trưởng. Maung Tun Kyaing thì hầu như lạc trong suy tư, nhìn
vị sư già mà không biết làm lễ. Người cha nhìn cậu và nhắc: “Con kính chào hòa thượng đi chứ”. Nghe xong cậu
bé chào vị sư trưởng, nhưng theo kiểu ngang hàng chứ không theo cách thông
thường là quì vái, trán đụng đất.

“Con không biết ta là ai sao?”, vị sư trưởng hỏi.

‘Tất nhiên là con biết”, cậu bé trả lời không
chút lúng túng. Và khi vị sư trưởng ngạc nhiên nhìn cậu, cậu nói tên vị hòa
thượng.

“Làm sao con biết? Có ai cho con nghe tên ta
chăng?

“Không”, cậu trả lời, “thầy không nhớ sao, con là
đạo sư của thầy, U Pandeissa”.

Vị sư trưởng ngạc nhiên tột độ, nhưng muốn chắc
chắn, ông hỏi cậu: “Thế thì con phải biết ta là ai, trước khi ta gia nhập tăng
đoàn. Nếu con
nhớ ra thì hãy nói nhỏ vào tai ta”.

Và cậu bé làm theo lời yêu cầu. Và khi vị thượng
tọa nghe đến tên tục mình, mà không ai biết đến ngoài ông và vài người khác, -
những kẻ biết đến ông từ bé và lớn lên cùng thời với ông - thì ông quì xuống
chân cậu, trán đụng đất và kêu lên giọng đầy nước mắt: “Tôi biết rồi, Ngài là
thầy của tôi”.

Ông đưa cậu cùng người cha và đứa em vào tu viện,
nơi đó Maung Tun Kyaing biết rõ từng chi tiết, đồng thời nhắc đến một cái phòng
nơi cánh đông, chỗ cậu từng ở và hay thiền định. Nhắc lại tượng Phật mà cậu hay
thờ cúng, mỗi ngày thắp nhang đèn và những điều khác mà vị thượng tọa cũng biết
đến. Cũng chkhôa bao nhiêu năm trôi qua, kể từ ngày U Pandeissa - vị sư trưởng
của tu viện Yungkyaung - nhập diệt.

Thế nhưng điều trọng nhất là Maung Tun Kyaing
không những chỉ nhớ đời sống tiền kiếp mà cậu còn giữ lại tri kiến xưa. Khi vị
thượng tọa chỉ cậu vài đoạn kinh Pali cũ, cậu tỏ ra đọc và hiểu rõ, mặc dù chưa
hề đi đến trường và lớn lên trong một gia đình không ai biết đọc viết - chứ
đừng nói về kiến thức về ngôn ngữ Pali. Và nếu còn có nghi ngờ gì về việc nhớ
lại tiền kiếp thì đây là minh chứng.

Khi người cha và hai con chuẩn bị về nhà, ngôi
nhà cũng nằm trên bờ sông như tu viện, thì vị sư trưởng đề xuất lấy một trong
những chiếc thuyền của tu viện mà đi. Mọi người đi xuống bờ, nơi đó có nhiều
thuyền đỗ, vị sư hỏi Maung Tun Kyaing muốn lấy chiếc nào. Không chút chần chừ Maung Tun Kyaing chỉ và một
chiếc, đó là thuyền của mình.

Thuyền của người Myanmar thường mang màu sắc rực rỡ, đầu thuyền có vẽ hai mắt, trông chúng
như những con vật sống động. Điều này phù hợp với niềm tin truyền thống cổ
Myanmar, cho rằng mọi sự đều sống, mọi sự có một cuộc đời riêng vì chúng có
thần, gọi là nat. Thế nhưng nếu ai biết hô triệu danh tánh và biết các điều liên hệ đến một nat thì họ có quyền lực với
chúng ta và vì thế không ai nói danh tánh này cho người khác. Chỉ chủ nhân và
những người bạn thân cận mới được biết.

Vì thế vị sư trưởng nói: “Ngài bảo thuyền này của
Ngài, thế thì Ngài có biết tên nó chăng?”. Cậu bé trả lời đúng tên.

Sau tất cả những bằng cớ này thì không còn ai
nghi ngờ việc Maung Tun Kyaing chính là U Pandeissa tái sinh, vị sư trưởng cũ
của Yunkyaung và mọi người đều muốn nghe cậu giảng. Khắp nơi đều gửi cậu lời
mời và cha mẹ cậu lo lắng cho sức khỏe con mình không biết có kham nổi không.
Nhưng cậu phản đối những ưu tư và nói; “Đức Phật trải qua vô số kiếp, hành động
quên mình và hướng đến giác ngộ. Vì thế con cũng không ngại khổ để đạt Phật
quả. Chỉ khi đạt được mục đích cao nhất con mới làm lợi lạc cho tất cả chúng
sinh.”

Các bài giảng của cậu gây ấn tượng đến nỗi hàng
ngàn người đến thăm và nghe cậu. Thậm chí cả một tu viện vì quá nhiều người
chen chúc đã bị sập nhưng may không ai chết, vì tu viện Myanmar được
làm phần lớn bằng gỗ, xây trên các cột gỗ cao. Tòa nhà vì thế mà lụn từ từ. Đủ
thời giờ cho mọi người chạy thoát.

Cuối cùng thì danh tiếng của Maung Tung Kyaing
đến tai vị thống đốc bang Myanmar, Sir Henry Butler, lúc đó ông đang ở
cung điện mùa hè tại Maymyo. Để kiểm tra sự thực về những gì mọi người kể về
cậu, ông cho người đưa cậu đến Maymuo.

Maung Tun Kyaing không những chỉ minh chứng về
mọi mặt tiếng tăm
của mình, cậu còn trình bày một cách thuyết phục giáo lý Phật giáo để cuối cùng
Sir Henry tặng cậu rất nhiều kẹo bánh và thêm một tờ giấy bạc trăm ru-pi. Maung
Tun Kyaing cũng như cha cậu chưa bao giờ thấy một tờ giấy bạc lớn như thế, chưa
hề sở hữu món tiền như thế bao giờ, thế nhưng cậu từ chối không nhận - vì theo
lời cậu nói không thể đem pháp ra mà bán và theo quy định của tu sĩ là không
nhận tiền bạc. Thế nhưng cậu nói thêm là kẹo bánh thì có thể nhận, lương tâm
cho phép, vì cậu được nhận thực phẩm biếu tặng. Mặc dù những qui định này chưa
ràng buộc đến cậu nhưng Maung Tun Kyaing tự xem mình là tỉ kheo, trong kiếp
trước là thế, kiếp này cũng thế.

Maung Tun Kyaing cũng muốn tặng lại vị thống đốc
một món quà nhưng vì không có gì ngoài chuỗi hạt, cậu cởi nó ra từ vòng tay và
tặng vị thống đốc, vị này hết sức xúc động và tươi cười nhận lấy. Khi cám ơn
cậu, ông nói: “Thế thì cậu phải chỉ cho tôi cách sử dụng chuỗi hạt như thế nào”
và Maung Tung Kyaing trả lời: “Nó dùng để quán tưởng ba tính chất của đời sống,
đó là vô thường, khổ và vô ngã”. Sau đó
cậu giải thích ngắn gọn ý nghĩa từ ba từ này trong giáo lý Phật giáo.

Vị thống đốc có ấn tượng sâu sắc khi nghe những
sự thực thâm sâu đó từ miệng một đứa trẻ. Làm sao một đứa trẻ bốn tuổi mà đạt
được sự minh triết của một cụ già? Vì đứa trẻ đó nói năng không phải như một
đứa trẻ, chỉ lặp lại chữ nghĩa do ai dạy cho mà không hiểu được ý nghĩa - ngược
lại, cậu nói chuyện đầy tính thuyết phục và lòng thành tâm, nên Sir Henry không
nghi ngờ vì về sự thực này và yêu cầu cậy hãy mang thông điệp của mình dến với
toàn dân Myanmar: “Hãy đi từ góc này đến góc kia của đất nước và giảng cho
những người cao nhất đến những kẻ thấp nhất, cả những tù nhân trong trại giam;
vì không ai hơn cậu có thể làm rung động được trái tim của những tên đạo tặc
chai lì nhất cũng phải mềm dịu trước niềm tin thành khẩn và tấm lòng tốt đẹp”.

Thế nên khắp nơi trên Myanmar, không những trái
tim mà cả những cánh cửa trại tù cũng mở ra cho người giảng pháp bé nhỏ này,
người mà đi tới đâu cũng mang lại niềm vui và lòng sùng tín nơi con người, cho
họ một niềm tin mới.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3