Con Đường Mây Trắng - Chương 4 - Phần 2

HAI VỊ THÀNH TỰU GIẢ Ở TSE-TSCHOLING

Nhờ uy tín cao với tính cách là vị ẩn tu và đạo
sư thiền định, với thời gian, Adscho Rimpotsché trở thành nhà lãnh đạo tinh
thần của Tse-Tschoking, cho nên cả vị tái sinh của sư trưởng chết cách đó nhiều
năm (lúc thời gian chúng tôi ở đó thì cậu vừa lên chín) cũng nhìn ông với cặp
mắt kính phục và để cho ông dẫn dắt cho đến ngày lấy lại cái già dặn của mình để nhận trách nhiệm tu viện trưởng.
Adscho Rimpotsché là một trong những “Repa”, người mặc áo trắng theo cách
Milarepa. Đó là người không mặc áo choàng đỏ đậm của một vị tăng sĩ mà choàng
một chiếc áo trắng có viền đỏ đậm của một vị tăng sĩ mà choàng một chiếc áo
trắng có viền đỏ. Và cũng như Milarepa, ông không cạo tóc mà đội một cái mũ dài
trên đầu. Hai tai ông đeo vòng làm bằng vỏ sò xoắn ốc màu trắng theo cách một
du sĩ khổ hạnh, như các vị thành tựu giả ngày xưa hay đeo.

Và vị tái sinh trẻ tuổi tại Tse-Tscholing cũng là
hiện thân của một vị tất địa từ quá khứ xa xôi, đó chính là Saraha, một trong
những nhà thơ lớn huyền bí vào thời đó(thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên). Ngược
với Adscho Rimpotsché, Saraha mang áo choàng tăng sĩ và vị gia sư dạy ông,
người có lòng tha thiết như một bà mẹ chăm sóc con nhỏ, là một tỉ-kheo đã thọ
giới. Và vị phụ tá cho Adscho Rimpotsché trong buổi lễ điểm đạo chúng tôi cũng
là một vị tỉ kheo, còn phần lớn các vị sống trong tu viện đều là người có gia
đình cả. Họ cũng mặc áo choàng đỏ của tăng sĩ, nhưng sống với gia đình trong
các cốc nhỏ riêng biệt nằm gần tu viện. Trong các dịp lễ, tất cả mọi thành viên
của tu viện tụ họp trong chánh điện, và trong những dịp đặc biệt thì tái sinh
của Saraha lên ngồi trên tòa của mình và dù còn nhỏ tuổi, cậu đã thực hiện vai
trò của mình một cách ung dung và vững chãi.

Thật kỳ lạ khi thấy sự ngây thơ trẻ con hợp nhất
với cái minh triết già dặn trong cậu bé nhỏ này và đứa bé trong cậu trực tiếp
đổi qua thái độ của một ông già như thế nào rồi trở lại sự hồn nhiên của một
đứa trẻ sinh động. Vị gia sư của cậu nói với chúng tôi, rằng cậu lấy lại tri kiến
cũ hết sức nhanh chóng. Cậu có thể đọc thuộc lòng cả cuốn kinh. Vị phụ tá sư
trưởng cũng kể cho chúng tôi nghe người tái sinh trẻ tuổi này đã trở lại tu
viện xưa của mình như thế nào.

Cậu được sinh ra trong một làng nằm ngay dưới
Dungkar Gompa và khi bắt đầu biết nói, cậu đã nhắc đến một tu viện nằm trên
núi, nơi đó cậu đã từng là tăng sĩ. Khi cậu cứ nhắc hoài chuyện đó thì tất
nhiên dân chúng trong làng nghĩ đến Dungkar Gompa vì người ta có thể thấy nó từ
dưới lũng. Thế nhưng cậu từ chối ý này một cách quyết liệt. Tình cờ vị phụ tá
Tse-Tscholing nghe tin này, lúc đó thì cậu mới ba bốn tuổi; và là vì lúc đó
chưa tìm ra tái sinh của sư trưởng Tse-Tscholing nên ông cùng vài tăng sĩ già
đến làng, nơi cậu ở. Họ nói chuyện được với cậu bé đang chơi gần nhà, nhưng
không cho biết ý định. Vì người Tây Tạng rất thích trẻ con nên không có gì lạ
khi các du sĩ tỏ ra thích thú nói chuyện với trẻ khi nghỉ dọc đường. Vị phụ tá
mang theo một cái bọc đựng pháp khí như các vị lạt ma hành cước thường mang và
trong số đồ đạc đó có vài thứ của riêng của vị sư trưởng lúc sinh thời. Vị phụ
tá tìm cớ mở bọc cho cậu bé nhìn từng đồ đạc trong đó. Thấy cậu bé tỏ vẻ quan
tâm nhìn các vật dụng đó, vị phụ tá hỏi cậu có muốn vài món trong đó không và
thích cái gì. Không chần
chừ gì cả, cậu lấy một cái chuông đã bị hư hại đôi chút, mặc dù có các chuông khác không hư và đẹp hơn nhiều nằm
bên cạnh. “Tại sao con muốn cái chuông cũ này? Vị phụ tá hỏi, “Ở đây có nhiều
chuông tốt hơn nhiều? Con không muốn lấy cái đẹp hơn sao?. “Không” - cậu bé trả
lời - “con thích cái chuông cũ của con hơn”. “Nhưng làm sao con biết đó là cái
chuông của con”, vị phụ tá ngạc nhiên hỏi. - “Vì ngày nọ chuông bị rớt và bị bể
một miếng nơi vành”, cậu bé nói rồi ngửa chông lên cao và vị phụ tá thấy một
miếng mẻ nơi vành trong của chuông, điều mà trước đó ông không biết.

Chuyện này về sau được người hầu cận của vị sư
trưởng ngày xưa xác nhận, ông nhớ lại chuyện xảy ra. Ông cũng khẳng định nhận
xét của cậu là chuỗi tràng hạt mà cậu nói là của mình, chuỗi đó thiếu một hạt đá
xanh, hạt này là hạt cuối của 108 hạt gỗ. Mỗi một vật của vị sư trưởng ngày xưa
đều được cậu nhận ra ngay, và từ chối các vật không phải của ông trước kia mặc
dù những vật đó giống hệt nhau.

Chuyện đáng để ý nhất là lúc cậu được thừa nhận
là tái sinh của vị sư trưởng ngày trước, cậu được đưa về lại Tse-Tscholing. Khi
vào phòng dành cho vị tu viện trưởng, cậu nói: “Đây không phải chỗ tôi từng ở,
tôi nhớ là chỗ trên đỉnh núi”. Cậu có lý: phòng cậu từng ở nằm phía trên của tu
viện, trên mỏm đá, nhưng
nó đã bị cháy, vốn nó làm bằng đá ở nửa phần dưới, phần trên bằng gỗ. Còn cái
mái nhô ra được lát gỗ mỏng và được đá đè lên như các loại nhà nhỏ trên núi
Alpes tại Thụy Sĩ hay Tirol.

Cũng như tại Dungkar Gompa, trong thời gian ở
Tse-Tscholing, người ta cũng cho chúng tôi một phòng thờ riêng rất đẹp. Nhưng
theo tinh thần tự do của phái Kargyutpa, cho phép lạt ma độc thân lẫn có gia
đình lưu trú, người ta không đòi Li Gotami phải ở ngoài tu viện. Nhờ thế mà
chúng tôi ở trong phòng thờ lớn này, trong đó tượng của Liên Hoa Sinh là quan
trọng nhất, xung quanh có nhiều kinh sách giáo pháp mật điển của Liên Hoa Sinh
và của các vị kế tục, cất giữ trong những kệ sách mạ vàng. Những tác phẩm này
được biết với tên Terma (báu vật), vì chúng là vật báu phải chôn kín hay giấu trong
hang động vào thời kỳ Phật giáo bị bức hại (như thời kỳ của nhà vua Langdarma),
và theo truyền thống thì khi thời gian chín muồi, chúng sẽ được các vị nối dòng
về sau khám phá. Giáo pháp Tử Thư, một trong những tác phẩm quan trọng mang tầm
kinh điển của toàn cầu với tên Luận vãng sinh Tây Tạng thuộc
về các báu vật đó.

Lý do mà Adscho Rimpotsché cho chúng tôi ở trong
một phòng thờ chính của tu viện không phải chỉ do lòng hiếu khách và sự tin
cậy: nó có nghĩa là ông không chỉ quí trọng chúng tôi mà đã chấp nhận chúng tôi
là thành viên trong tăng đoàn của mình. Chúng tôi hết sức xúc động khi nghĩ
rằng, trong lúc ông sống trong chòi nghèo nàn, không chút trang trí thì chúng
tôi ở trong một phòng với cột kèo trang trí sang trọng, xem ra để dành cho một
vị vương tước chứ không phải cho người học trò đơn sơ.

Một bên của phòng thờ gồm có một khung gỗ với
nhiều tấm kính như ta thường thấy các vê-ran-đa kiểu xưa của Ấn Độ. Nhờ thế mà
chúng tôi nhìn ra được khoảng sân rộng rãi của tu viện và các tòa nhà được xây
như những bậc cấp tựa vào sườn núi; giữa các tòa nhà đó là những cây thông cao,
cờ cầu nguyện và các tháp. Chúng tôi cũng thấy phòng thờ và ở dành cho vị tái
sinh trẻ tuổi, cậu ở trong phòng với nhiều tranh thanka quí giá, bàn thờ khắc
chạm và các bàn nhỏ; và chúng tôi cũng thấy nhà nhỏ của vị gia sư, nhìn qua
giống như nhà cho búp-bê với kiến trúc bằng gỗ thanh nhã và được vẽ rất đẹp.

Mỗi buổi tối vị gia sư cùng cậu tái sinh đi vòng
quanh tháp và tu viện, chuỗi hạt trong tay và miệng tụng thần chú; vị gia sư long
trọng đi trước và cậu bé vui vẻ hồn nhiên đi sau. Xem ra cậu để tâm đến chim
chóc bay lượn xung quanh hay con chó nhỏ gặp trên đường đi mà cậu bế lên tay và
vuốt ve nó, đến lúc vị gia sư nhìn lui và nhắc cậu hãy nhớ việc mình làm. Người
ta có thể thấy vị gia sư thật
ra cũng thông cảm trẻ con vẫn thích chơi với chim chóc hay chó con. Chúng tôi
chưa hề thấy ông nghiêm với cậu mặc dù việc giáo dục cho một vị tái sinh thường nghiêm khắc hơn
các tiểu tăng khác nhiều.

Vị tái sinh của Saraha là một cậu bé khác thường
trong mọi phương diện. Giả như chúng tôi không biết cậu là hóa thân thì chúng tôi cũng thấy cậu vượt hơn hẳn mọi trẻ
cùng tuổi khác rồi, vì khuôn mặt cậu hết sức thông minh. Cặp mắt cậu đầy sinh
động và dáng đi có cái ung dung tự nhiên. Trong buổi lễ khi ngồi trên tòa trong
điện, cậu rõ ràng là một Rimpotsché (đạo sư) rồi; và khi tiếp chúng tôi trong
phòng riêng, cậu có một sự hòa lẫn duyên dáng giữa sự cao trọng và cái tò mò.
Khi Li Gotami vẽ chân dung trong phòng cầu nguyện của cậu - mà đằng sau là các
tranh thanka quí giá và các pháp khí khác nhau dành cho vị trí tâm linh của cậu
- thì cậu tỏ ra rất quan tâm đến việc này, cậu hết ngại ngùng và nói chuyện tự
nhiên lúc nghỉ vẽ. Rõ ràng là cậu thích thú cái mới của chuyện này. Đồng thời
cậu cũng là người mẫu rất tốt, ngồi yên một chỗ trong lúc được vẽ, không tỏ ra
có chút mệt nhọc hay thiếu kiên nhẫn.

Ngày nọ, sau một buổi tuyết rơi dữ dội, trong lúc
thưởng thức phong cảnh nhìn qua cửa sổ, bỗng nhiên chúng tôi thấy nhiều thân
thể trần truồng từ phòng thờ đi ra và nhảy vòng vòng xung quanh tuyết trắng
phau, sau đó lăn nhiều vòng; còn chúng tôi thì lạnh run ở trong phòng sang
trọng nhưng không được sưởi này. Các thân trần truồng đó không ai khác hơn là
vị tái sinh trẻ tuổi và hai cậu khác cùng tuổi đang chơi đùa với nhau. Sau khi
lăn lăn lại trên tuyết, họ kéo nhau lại vào phòng, có lẽ để sưởi; nhưng ít lâu
sau họ lại kéo ra, lặp lại trò chơi vài lần rồi mới chán.

Chúng tôi vui thích thấy rằng, dù học hành và
chịu nhiều kỷ luật, sự rèn luyện thân thể và trò chơi đùa thiếu niên không thể
bị giảm, mặc dù tính chất tâm linh cao độ của việc dạy dỗ, người ta vẫn không
câu nệ. Ắt hẳn trò chơi tuyết này có mục đích tập luyện cho thân thể cứng cỏi
và chuẩn bị cho phép nội nhiệt về sau mà trong đó hành giả phải chứng minh đủ
khả năng dùng nhiệt trong thân mà chống lại cái lạnh, qua sự chế ngự du già lên
thân và tâm. Thế nhưng chúng tôi thấy không nên hỏi vị gia sư hay bất cứ ai
khác về chuyện này để các cậu này khỏi bối rối, nếu đây chỉ là trò chơi trẻ
con.

Ngoài chuyện tu tập hàng ngày, chúng tôi có
chuyện làm để khỏi phí thời giờ. Có nhiều kinh sách để học hỏi, trích dẫn và
ghi chép thêm, làm bản in gỗ và bản sao các bích họa. Trong phòng thờ đối diện
với phòng mình, chúng tôi vui mừng thấy các bích họa rất đẹp của tám mươi bốn
vị thành tựu giả, chúng tôi cho tôi cơ hội họa lại để hoàn thiện công trình
tranh tượng của tôi, tiếp nối công việc lúc trước về đề tài có tính lịch sử quá
trình này.

Bên ngoài tu viện cũng có nhiều sự kiện để vẽ
lại, chụp hình và vì thế không có lúc nào chúng tôi được nghỉ. Ngoài ra chúng
tôi có nhiều câu chuyện thú vị về những khía cạnh khác nhau của truyền thống
tâm linh và phép tu thiền định với Adscho Rimpotsché, với vị phụ tá, gia sư của
vị tái sinh và một vài người khác. Trong những người đó thì đặc biệt vị giữ
điện chính, người mà mỗi ngày mang nước, đèn và thắp nhang cũng như chùi dọn
các pháp khí và phòng ốc sáng trưng. Ông làm những việc này không những một
cách cẩn thận mà còn xem nó là phép tu và với lòng tin tuyệt đối, nên nơi trán
ông có một cục u thường xuyên; nó sinh ra do vô số lần lễ lạy mà mỗi ngày ông
cúng dường các bậc giác ngộ và các hiện thân các vị hộ pháp cho trí huệ siêu
việt. Đó là những vị hộ pháp cho các dòng truyền thừa, trong đó có Đại hắc
(Mahakala), Kim cương thủ (Vajrabhairava), Thời luân (Kalacakra) Hô Kim cương
(Hevajra), Đại cực (Mahasukha). Đại cực là một trong những vị hộ thần đặc biệt
của dòng Kargyutpa, vị này cũng được thờ cúng trong dòng Gelugpa và các dòng
khác, được xem là biểu tượng chính của một hệ thống kinh thiền định sâu sắc -
mà bản thân tôi cũng nghiên cứu suốt một năm. Vì lý do đó mà cho vị này và
man-đa-la liên hệ có một khám thờ riêng được trưng bày bên cạnh Liên Hoa Sinh.

Tại Dungkar Gompa, chúng tôi còn tìm thấy một bức
hình nổi của man-đa-la này, được hoàn thành một cách chi li với 164 vị thần và
các chi tiết khác. Rất tiếc hình này bây giờ nằm trong một góc tối của chính
điện, bị bọc lại bởi một khung gỗ và phủ kín nên không thể nghiên cứu kỹ thêm
những như không thể chụp hình.

CUỘC GẶP GỠ THOÁNG QUA VỚI TOMO GÉCHÉ RIMPOTSCHÉ

Tại Dungkar, chúng tôi hy vọng sẽ gặp vị tái sinh
của Tomo Géché Rimpotsché, khi đó cậu cũng phải bằng tuổi tái sinh Saraha tại
Tse-Tscholing. Nhưng lúc chúng tôi đến Dungkar Gompa năm 1947 thì cậu còn ở
Sera, chỗ mà người ta gửi cậu đến để học hành thêm dù con bé, sau khi cậu học hết những gì thầy dạy tại
Dungkar. Tất cả mọi chuyện học hành đối với cậu chỉ là sự nhớ lại những gì đã
biết trong tiền kiếp.

Chúng tôi lo nghiên cứu về các đền và tu viện
quan trọng tại Gyantse - đặc biệt tại Kumbum, đền “Vạn Phật”, và tại
Pal-Khorlo-Tschưde, đồng thời lo thủ tục xin hộ chiếu cũng như các phép tắc
khác để được làm việc trong các đền của Rintschen-Sanpo, được họa lại các bức
họa. Chúng tôi bận rộn đến nỗi không không quan tâm gì đến các biến cố chính
trị. Chúng tôi phải hứa với vị tùy viên chính trị tại Gangtok, sẽ không tiết lộ
gì về các biến cố tại Tây Tạng và không tuyên bố điều gì về vụ Reting. Thế
nhưng chúng tôi biết rõ một điều, đó là uy quyền chính trị và tôn giáo không
thể lẫn lộn thêm được nữa và cái nguy của Tây Tạng nằm ở chỗ tu viện nào cũng
hướng tới quyền lực; có hàng ngàn tu sĩ tụ hội với nhau, trong đó những yếu tố
quí báu của một đời sống tôn giáo đích thực bị mất đi: sự an bình và tĩnh lặng
của đời sống cô tịch cũng như con người thể nhập và tính tự do của cá thể.

Trong những tập hợp tu viện lớn tại Gyantse, được
tách ra khỏi cuộc sống thế gian bởi những vách tường dài hàng cây số mà vẫn ngự
trị trên tất cả, chúng tôi đã quan sát thấy đời sống tâm thức cạn dần đi, đó là
điều khó tránh khỏi khi con người sống chung đụng với nhau. Chúng tôi càng thấm
thía cái minh triết của Milarepa và các vị kế tục khác của ông, họ là những
người chọn chỗ ẩn tu, không ham thích các tập hợp tôn giáo, những nơi mà kiến
thức sách vở được coi trọng hơn sự hình thành cá tính cũng như sự phát triển
lòng từ bi và trí huệ.

Trong quá khứ, dòng Sakyapa (lấy tên từ tu viện
Sa-Skya thành lập năm 1071 sau Công nguyên) là tổ chức tôn giáo có uy lực nhất.
Trong thời đại huy hoàng đó, họ được xem là giới thống trị Tây Tạng. Nhưng cũng
chính thế lực chính trị là nguyên nhân của sự suy tàn của họ, vì thế lực chỉ
sinh ra thế lực đối đầu. Nền thống trị của họ sau đó bị dòng Gelugpa thay thế,
với sự thiết lập của vị Đại lai lạt ma, người nắm toàn bộ quyền lực chính trị
và tinh thần tại Lhasa. Thời đó các tu viện trở thành đô thị, có nơi dung chứa
cả vạn tu sĩ.

Các nơi này nhắc ta nhớ đến tu viện đại học tại
Nanlada và Vikramasila (tại Bihar và Bengal), trong đó đời sống tôn giáo và văn
hóa của đạo Phật tập trung tới mức trở thành mục đích dễ dàng cho quân Hồi giáo
cực đoan. Khi họ phá hủy những cơ sở này thì đạo Phật tại Ấn Độ xem như bị tiêu
vong; trong lúc Ấn Độ giáo, không tập trung, chẳng tổ chức theo kiểu tu viện,
thì sống còn được; vì truyền thống của họ được tiếp xúc nuôi dưỡng trong những
gia đình các tu sĩ hoặc người
ngoan đạo, hoặc thể hiện trong những con người độc lập như du sĩ khổ hạnh sống
trong những nhóm nhỏ quanh một vị thầy, họ là người giữ sức mạnh tôn giáo không
bao giờ tắt. Ngay cả việc hủy hoại đền đài cũng không phá hủy được niềm tin tôn
giáo nằm trong mỗi bàn thờ gia đình, trong đó ít nhất có một người giữ đạo.

*

* *

Vài năm sau khi chúng tôi rời Tây Tạng thì đạo
Phật chỉ tồn tại ở xứ sở này trong các vùng độc cư vắng vẻ, xa phố phường, xa
nơi chốn đi lại, hay chỉ còn trong những gia đình, nơi mà đời sống tâm linh
không phụ thuộc gì vào các định chế và tổ chức tu viện, mà chỉ sống nhờ vào
ngọn lửa của niềm tin truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Điều này tôi được
thấy nơi phái Nyingmapa, Kargyutpa và các bộ phái Phật giáo Tây Tạng nhỏ khác;
họ quan tâm đến truyền thống giảng đạo của thầy trò hơn là cách giáo dục quảng
đại quần chúng của các tu viện lớn.

Chúng tôi hầu như đã quên mọi biến cố đó và xem
ra Sera đã trở lại với đời sống bình thường vì không có tin gì từ đó cả. Ngoài
ra cứ vào mỗi độ thu thì từ vị Thủ tướng đến anh công chức thấp nhất, từ Đại
lai lạt ma đến chú tiểu tăng, từ nhân sĩ tiếng tăm nhất đến kẻ cùng đinh, ai ai
cũng tham gia các buổi lễ dành cho công chúng như các buổi làm phép tại tu
viện, trình diễn các sự tích (ví dụ tiền thân Đức Phật), được các nghệ sĩ
chuyên nghiệp diễn trong các gia tộc lớn mà ai cũng được vào xem. Các cuộc liên
hoan ngoài trời với lều láng trang hoàng rất đẹp tại các vùng quê quanh các đô thị
lớn hay các tu viện; và cả những cuộc tranh tài thể thao như đua ngựa, bắn cung
với các điệu múa dân gian,
trong đó kẻ nghèo người giàu đều vui thích. Người Tây Tạng là những người yêu
đời và sùng tín, họ biết cách thống nhất hai tính chất và nhờ thế mà hưởng cái
“đẹp nhất của hai thế giới”.

Thế nhưng cái lạnh mùa đông đã kề tới và chấm dứt
mọi hoạt động ngoài trời. Bỗng nhiên mọi người ai cũng trùm mũ lông và mặc áo
mùa đông, mặc dù mặt trời còn chói lọi và bầu trời xanh thẩm màu nhung. Nền đất
và hồ nước đã đông kín, và những con sông nước chảy mạnh mà hai bên bờ cũng đã
lác đác có băng.

Thời đó, chúng tôi nghe rằng cậu Tomo Géché đã
rời Sera và trở về quê Dungkar. Người ta cho rằng cậu sẽ nghỉ vài ngày ở
Gyantse. Thế nhưng loại tin đó chúng tôi nghe đã nhiều vì thế không để ý gì
lắm, nhất là sau khi hòa bình trở lại với Sera.

*

* *

Ngày nọ chúng tôi trên đường từ “Điện Vạn Phật”,
nơi mà tôi sao chép kinh sách cũng như bích họa, còn Li Gotami thì chụp lại các
bức tượng đẹp. Một số trong đó được trình bày lại trong tác phẩm Grundlagen
tibetischer Mystik (Cơ sở mật tông Tây Tạng)
. Đó là một ngày đặc biệt lạnh
và nhiều gió; và cũng như mọi người, chúng tôi trùm áo ấm, mang khăn choàng
theo kiểu Tây Tạng, mắt đeo kính đen chống cát. Khi đi ngang qua phố chính mà
mỗi ngày chúng tôi đều đi để đến tu viện thì có hai ba tu sĩ đi ngược lại rõ là
họ trên đường đi đến đền chính của tu viện. Một trong số họ cõng trên vai một
cậu bé mặc áo choàng đỏ. Lẽ ra chúng tôi đi ngang họ mà không để y điều gì, nếu
thái độ cậu bé không có gì lạ làm chúng tôi phải để ý. Bỗng nhiên cậu rướn
người lên, ngẩng cổ nhìn
chúng tôi ngạc nhiên tột độ và tỏ vẻ quan tâm - trong lúc những người đi cùng
với cậu không để ý gì đến chúng tôi. Chúng tôi cũng như những người Tây Tạng
khác đi ngoài đường, nhất là khi màu mắt của chúng tôi khác với màu mắt của họ
thì đã bị cặp kính đen che mất. Ở đây, người ta mang nhiều loại kính đó, vừa để
che mặt trời quá chói, vừa để chống bụi cát trong những ngày nhiều gió. Khi
chúng tôi đến gần nhóm tu sĩ thì cậu bé xem ra bị kích động hơn; cậu xoay người
lại, nhìn chúng tôi với sự chú tâm rõ rệt - hầu như cậu muốn nhớ đến ai mà mình
đã từng quen biết nhưng lúc này không nhận ra. Và bây giờ đến phiên chúng tôi
sửng sốt - và như một tia chớp trong bầu trời xanh trong - ý nghĩ ập đến với
chúng tôi là, đây phải
chăng là tái sinh của Tomo Géché Rimpotsché.

Trong khoảng thời gian đó thì hai nhóm người đã
đi xa và mặc dù Li thúc tôi quay lại, chạy theo nhóm tu sĩ, tôi cảm nhận rằng,
không phải chỉ vì không nên chạy theo ai mà là đây không phải chỗ và lúc để có
một cuộc gặp quan trọng và phi thường như thế. Ngay giữa phố xá và lúc đó gió
lạnh như cắt, xung quanh là đám người tò mò - không, tôi không muốn gặp lại
thầy mình như thế - dù ông có ở trong hình hài của một đứa trẻ. Tôi ước mong
được gặp lại ông trong sự tĩnh lặng để có thể nghe được nhị đập trái tim mình
và phản ứng hồn nhiên của vị tái sinh trẻ tuổi. Không, tôi không để cho phút
giây quý báu này bị mất đi vì sự hiếu kỳ tầm thường và những câu xã giao trống
rỗng.

Vì thế chúng tôi quyết định trước hết hãy xác
nhận mình không lầm lẫn và hỏi vị tái sinh này ở đâu để ngày mai đến tìm. Ý
tưởng về cuộc hội ngộ làm tôi xúc động sâu xa và chúng tôi hồi hộp không biết
cậu bé còn nhớ lại được quá khứ không để thiết lập lại liên hệ cũ - vì lúc đó
cậu mới lên chín - và ấn tượng của đời sống mới chắc đã thúc đẩy lùi mọi ký ức
tiền kiếp.

Chúng tôi vội về nhà và nhanh chóng biết rằng đó
quả thật là tái sinh của Tomo Géché, người mà chúng tôi đã gặp. Thế nhưng ngày
hôm sau khi đến nơi thì được biết cậu đã rời Gyantse trước khi mặt trời mọc.

Chúng tôi thất vọng vô cùng nhưng tự nhủ sẽ được
gặp cậu tại Dungkar trên đường về và sẽ không những chỉ được nói chuyện trong
sự yên tĩnh mà còn được ở lâu với cậu tại nơi mà chúng tôi đã từng quen thuộc
và quí mến.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3