Con Đường Mây Trắng - Chương 4 - Phần 3
CÁC CUỘC BIỂU DIỄN HUYỀN BÍ
Mọi sự xảy ra hoàn toàn ngoài tiên liệu. Vài
tháng sau khi chúng tôi đến đền thờ “Vỏ sò trắng” thì mới hay Tomo Géché
Rimpotsché đã lên đường đi viếng một tu viện tại Darjeling. Thế nhưng vài tháng
sau nữa quay lại thì chúng tôi được nghe từ cha ông - lạ thay - mà chúng tôi
gặp ngay trong rừng, giữa đường Gangtok và Kalimpong (và sau đó không còn gặp
lại nữa vì không bao lâu sau ông chết), rằng con ông đã được trở lại Sera vì
người ta cho rằng nơi đó đã yên. Có ai ngờ được số phận nào đã diễn ra cho tu
viện và cả vùng này. Cũng như đau khổ không tả xiết cho vị tái sinh trẻ tuổi.
Nhưng thôi, tôi chưa muốn nói quá sớm.
Vì nhiều lý do mà chúng tôi dừng chân nhiều tháng
tại Gyantse hơn dự định; đây cũng là thời gian mang lại hiệu quả và kinh nghiệm
quí báu. Nhờ dịp đó mà chúng tôi thăm được nhiều tu viện và cốc độc cư trên núi
xung quanh vùng Gyantse, nhất là điện vàng “Vạn Phật”, biến nó thành nội dung
nghiên cứu trong thời gian chúng tôi có được. Khối lượng tranh tượng của ngôi
đền chín tầng này với hàng trăm khán thờ riêng biệt mà mỗi nơi đều có những
bích họa tuyệt đẹp - đó là chưa nói vô số tranh tượng - thật ra cả đời người
cũng không nghiên cứu hết được. Ngoài ra chúng tôi tham dự nhiều lễ nghi và
sinh hoạt tôn giáo, kể cả những vũ điệu tâm linh nổi tiếng cũng như các cuộc
trình diễn huyền bí với màu sắc rực rỡ của áo choàng, các mặt nạ sinh động,
những động tác huyền bí siêu hình với âm nhạc tôn giáo. Tiếng nói của các lực
lượng thiên nhân và ma quỉ hầu như đọ sức với nhau trong một đấu trường vĩ đại
của một thứ kiến trúc to lớn, của những ngọn núi với tới trời.
Tôi đã từng thấy các cuộc biểu diễn tương tự tại
Yiga-Tschưling, Hemis, Gangtok và tại một số tu viện nhỏ, nhưng ấn tượng nhất
là tại Hemis (Ladakh), nơi mà các cuộc biểu diễn kéo dài ba ngày với hàng ngàn
khán giả, nhiều người phải đi vài ngày đường để đến xem. Phần lớn trong số họ
phải cắm lều bên ngoài tu viện, viện này nằm trên một mỏm núi cheo leo tuyệt
đẹp. Ở đây (khoảng
đầu những năm ba mươi), người ta chưa liên lạc với thế giới bên ngoài, phần lớn
chưa ai thấy một chiếc xe có bánh, nơi mà nhắc đến tàu hỏa hay tàu thủy chỉ gây
nên cái mỉm cười nghi ngờ, còn máy bay thì chưa nghe ai nói tới - đây là nơi mà
ta thấy rõ ấn tượng của các cuộc biểu diễn huyền bí lên các người ít học thức
và tham gia cùng với cảm xúc trọn vẹn của họ.
Những cuộc biểu diễn huyền bí này không phải là
trò diễn xuất cho đám đông hiếu kỳ mà ý nghĩa của nó là mở một thực tại cao hơn
ở bình diện con người nhờ những lễ nghi huyền bí, trong đó phần của thế giới
tâm linh được hô triệu, thể hiện thông qua những người chịu từ bỏ cá thể mình
trong một thời gian nhất định. Sự từ bỏ cá thể đó được thực hiện bằng nhiều
nghi lễ. Sau đó họ trở thành công cụ và bình chứa cho các năng lực siêu nhiên
mà họ mang mặt nạ đại diện. Những mặt nạ này, dưới ánh mặt trời rực rỡ và với
vũ điệu của những người mang, hầu như toát ra một sự sinh động siêu nhiên,
không phải chỉ có tính cách của một thiện thần mà còn thể hiện khía cạnh đáng
sợ mà các năng lực cao cấp hiện lên trong ngoại cảnh cũng như trong lòng người:
Uy lực của thần chết và sự hủy hoại, cái đáng sợ của sự bất định, năng lực của
sự phẫn nộ và ảo giác những bóng ma của sự nghi ngờ, chúng theo ta từ lúc sinh
ra đến ngày chết, từ lúc chết đến ngày sinh, cho đến lúc ta học được bài học,
biết xem sinh tử với một lòng can đảm, lòng này chỉ được sinh ra từ lòng từ bi
với mọi chúng sinh và từ tri kiến về tự tính đích thực của mọi dạng xuất hiện.
Bao lâu ta còn chưa hiểu rằng mọi dạng thức đáng sợ đó đều là hiện thân của
chính tâm thức ta và là sự chuyển hóa của chính năng lực đưa ta đến giác ngộ,
thì bấy lâu ta vẫn còn phiêu bạt trong vòng sinh tử, như Tử Thư viết.
Vì thế, các cuộc biểu diễn huyền bí của Tây Tạng
nhằm thể hiện thế giới siêu nhiên nay, hay đúng hơn là thế giới siêu việt, nó
phản ánh trong tâm con người và thể hiện ra, thế giới đó áp đảo tâm người, nếu
tâm người không biết cách phát biểu đúng đắn. Các lễ nghi của người Ai Cập cổ
hay sự thờ cúng vị thần Dionysos cũng có nguồn gốc đó. Và cũng như tại Hy Lạp, các màn kịch tôn giáo phát
xuất từ vũ điệu thờ Dionysos thì các màn biểu diễn huyền bí Tây Tạng bắt nguồn
từ vũ điệu của nhà huyễn thuật, trong đó những động tác tượng trưng và sự ban
phép được áp dụng để trừ tà và mang lại các năng lực tốt lành.
Cũng như với người Hy Lạp cổ, các vũ điệu mặt nạ
Tây Tạng cũng được diễn ra ngay trong đám người xem. Ở đây không có bục trình
diễn phân cách khán giả mà các vũ điệu được thực hiện hiện ngay trong sân tu
viện, xung quanh là hành lang hay các phòng trưng bày, nơi mà khách quan trọng
được mời ngồi, còn những người khác chen chúc nhau trong các phòng còn lại, có
người ngồi trên cả mái nhà. Các kiến thức đầy ấn tượng của các phòng, các hành
lang trang hoàng rực rỡ cũng như khán giả đây màu sắc vui tươi tạo nên một
khung cảnh tự nhiên đẹp mắt, nó không hề tách rời với các vũ công, như công
trình kiến trúc không xa phong cảnh, người xem không xa người diễn. Người xem
và người diễn hòa lẫn với nhau trong một chứng thực chung, không còn biên giới
nào giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa cái thế tục và thiêng liêng, nó làm cho
người xem cũng là kể tác động, cho người xem tham dự vào một thực tại huyền bí,
do tâm tạo, của một tầm ý thức cao hơn. Sự chờ đợi, niềm tin kiên định, phản
ứng và cảm xúc hồn nhiên của họ hầu như đã tạo nên một ý thức chung bao trùm,
trong đó người diễn và người xem cùng sống, họ được cùng nâng lên trong một
bình diện chứng thực tâm linh mà bình thường họ không đạt được.
Thật là khó quên khi thấy những hình ảnh siêu
nhân của các vị thiên thần địa thần, các ma quỉ từ trong bóng tối của chính
điện bước ra và uy nghi đi lên bậc tam cấp để vào sân của chính điện bước ra và
uy nghi đi lên bậc tam cấp để vào sân điện, hòa với hơi thổi của những
chiếc kèn khổng lồ và nhịp đập chầm chậm nghiêm trang của xập xỏa. Hàng ngàn
con người trầm tư, đứng chen chúc trong sân, trên các hành lang, ban-công, mái
nhà xung quanh, nín thở, hầu như mất hồn vì sự huyền bí đầy uy lực. Dần dần các
vị thần tôn kính xuất hiện: với dù lọng đầy màu sắc là vị chúa tể của năng lực
siêu nhiên; Liên Hoa Sinh, đi theo các hóa thân khác nhau của Ngài mà Ngài đã
sử dụng trong nhiều lúc, nhiều đời sống để phụng sự người; là Phật Thích-Ca, là
vua, là học giả, là tu sĩ du già, là tăng sĩ, cũng như trong tình trạng phẫn
nộ, như người chiến thắng ma quỉ, như bậc hộ pháp, như người truyền dạy về một
thực tại cuối cùng nằm ngoài mọi khái niệm. Với những bước chậm rãi của vũ điệu
và động tác thần bí, các dáng hình này đi vòng xung quanh cột mang cờ cầu
nguyện giữa sân chính điện, trong lúc đó thì nhạc điệu trầm bổng của một ban
nhạc hòa lẫn với tiếng tụng niệm, nó ban phép lành của chư Phật và các bậc
thánh và ca tụng thiện duyên của hành động các Ngài. Vầng mây hương tỏa lên bầu
trời và không khí rung động với tiếng gồng, tiếng trống rất trầm, tiếng kèn,
tiếng kim loại của xập xỏa.
Thế nhưng trong lúc các hình ảnh tôn kính đang đi
vòng quanh sân điện thì không khí đang căng thẳng của khán giả bỗng nhiên bị
gián đoạn bởi sự xuất hiện của hai mặt nạ cười nhăn nhở, hai người mang mặt nạ
bắt chước làm theo các động tác của các vị thánh và hầu như chế nhạo chư Phật
và các vị hộ pháp. Họ nhảy ra nhảy vào vòng quanh các vị, nhìn chằm chằm khuôn
mặt các vị, xem ra họ muốn chống lại năng lực của các vị này và muốn chọc tức
họ. Thế nhưng các vị không quan tâm gì đến những kẻ phá hoại, vẫn điềm nhiên đi
tiếp đường đi của mình.
Kết quả thật lạ lùng: thay vì phá hoại không khí
thiêng liêng và kỳ diện thì sự đối diện của cái cao cả và cái đáng chê trách
chỉ làm ý nghĩa của thực tại thêm phần sâu sắc; vì thực tại bao gồm tất cả,
trong đó cái cao nhất và cái thấp nhất đều có chỗ đứng và phụ thuộc lẫn nhau.
Chỉ nơi đây ta mới đạt được cái tự tính của thế giới và của đời sống của chính
ta đúng trong kích thước và tầm nhìn của chúng. Nhờ sự chứng thực một lúc hai
cực của thực tại mà tác dụng của nó được nâng cao. Chúng giống như hai cực điểm
của một bài ca: chúng mở rộng biên độ của khả năng cảm nhận của ta, trong đó
nhờ khoảng cách tối đa của hai cực của sự cảm nhận đối kháng mà không gian nội
tại được mở lớn. Biên độ dao động càng lớn thì cảm nhận của ta càng sâu sắc,
càng ấn tượng. Sự nghiêm túc và óc hài hước không hề loại trừ nhau; ngược lại
chúng tạo thành và minh chứng cho cái tràn đầy và toàn diện của sự thực chứng
và khả năng nhìn mọi chuyện một cách tương đối, biết nhìn mọi “sự thực” - nhất
là tính tương đối của vị trí mình và cái nhìn của riêng mình từ đó mà phát
sinh, từ đó mà có phân biệt tốt xấu, đúng sai.
Trong các cuộc trình diễn huyền bí Tây Tạng, tất
cả mọi dạng đời sống đều hiện diện: thế giới của thiên nhân và loài người, của
sinh vật mang đầu thú, của loài quỷ đói, của thần chết và sự hủy diệt cũng như
sự hiện thân mang nhân trạng hay phi nhân trạng, của lòng từ bi mà nhờ đó mọi
dạng hữu hiện được giải phóng khỏi hạn chế của mình và thống nhất với một dòng
sống to lớn hơn, nó bao trùm tất cả.
Sự đấu tranh giữa năng lực của ánh sáng và tối
tăm, giữa cái thiên tính và ma quái, giữa sự hủy diệt và khuynh hướng tìm về
đời sống vĩnh cửu: sự đấu tranh đó được diễn tả trên bình diện lịch sử cũng như
trong lĩnh vực phi thời gian của tâm hồn con người. Liên Hoa Sinh đã đến và
chiến thắng của Ngài chống lại hắc đạo và thống trị của loài quỉ dữ sống trên
xương máu cúng dường của người và vật, đó là chủ đề chính của ngày đầu các cuộc
biểu diễn trong các tu viện của trường phái cũ (Nzingma, Katgyüd và Sakya),
trong lúc đó thì phái Gelugpa diễn lại sự suy tàn của vua Langdarma, người giết
anh mình để đoạt ngôi và sau đó bị một tu sĩ cải trang làm người của hắc đạo,
biểu diễn vũ điệu cung tên, bắn chết.
Thế nhưng quan trọng hơn các tuồng tích lịch sử
là các trình bày liên hệ tới Tử Thư, tác phẩm quan trọng của Liên Hoa Sinh. Cuốn sách này nêu rõ, mọi thánh thần mà
quỉ, sức mạnh của ánh sáng hay bóng tối đều nằm ngay trong chính ta và những ai
muốn chiến thắng thần chết phải đủ khả năng nhìn rõ tận mắt nó và thừa nhận nó
ngay giữa đời sống này. Sau đó thì chính cái chết đã vén màn lên cho ta thấy
cái huyền bí sâu xa nhất là đời sống, nó sẽ xuất hiện trong dạng thần chết đáng
sợ; đầu bò, cùng với ma quỉ dữ tợn, chúng hô triệu cái tâm lo sợ sẵn có của con
người, chúng sẽ giết chết con quỉ của bản ngã và sự ích kỷ và do chính là cái
hy sinh cúng dường duy nhất mà Phật chấp nhận: hy sinh cái ta của mình. Thần
chết không ai khác hơn là vị đại từ bi: Quán Thế Âm. Thế là những phẩm vật cúng
dường đầy xương máu của quá khứ đen tối đã được thay bằng bản ngã nhỏ bé của
chính ta - cái ta, cái đã cầm tù ta từ vạn kiếp và ngày nay còn trói buộc ta
trong vòng sinh tử, cho đến ngày ta vượt khỏi cái ta bé nhỏ, vượt ra vòng kiềm tỏa
của nó.
Liên Hoa Sinh, một trong những vị thầy minh triết
nhất của mọi thời kỳ, đã cho lễ nghi huyền bí này một ý nghĩa mới, lễ nghi vốn
được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bởi tu sĩ đạo Bưn. Thấy chỗ cho những
phẩm vật đẫm máu mà con người dùng để khẩn cầu các thế lực tối tăm đang bị đe
dọa là sự chiến thắng chính mình. Trái tim con người đã trở thành sân khấu của
vũ trụ và sự chuyển mình này được diễn tả trong buổi diễn như sau; thay chỗ cho
con người hay vật còn sống là hình nộm một người làm bằng bột màu, hình đó được
một con quỉ chỉ còn bộ xương vác vào sàn diễn và nhảy múa xung quanh, sau đó
thần chết với đoàn tùy tùng đi vào và đuổi quỉ ra.
Cuối cùng là giai đoạn quan trọng và đầy kịch
tính nhất của buổi hành lễ, cao điểm của vũ điệu trong ngày thứ hai của buổi
diễn theo các trường phái cổ: Thần chết, được tượng trưng bởi một mặt nạ đầu bò
xanh đậm, ba mắt, đeo đầu lâu, tay trái cầm sọ người đầy máu, tay phải cầm mã
tấu - nhảy múa với bước chân dồn dập, càng lúc càng say sưa quanh hình nộm nằm trên
mặt đất, cho đến lúc hình ảnh chỉ còn màu sắc thấp thoáng và lưỡi kiếm gần như
biến thành tia chớp. Tiếng trống và xập xỏa tăng dần tiết điệu lên tới cao điểm
nghe ầm ầm - và trong phút giây này thì lưỡi kiếm đâm hình nộm, chặt ra từng
miếng và ném đi mọi hướng. Lúc đó loại quỉ tha ma ào tới giành nhau những miếng
đó, nhai nuốt chúng, ném phần còn lại lên không và vào người xem, để họ cũng
tham gia vào bữa tiệc tượng trưng này.
Thật là khó mô tả một ấn tượng về tác động vừa
hiện thực vừa kỳ bí của sự trộn lẫn giữa cảnh tự nhiên và siêu nhiên này. Những
mặt nạ lớn, với màu sắc và hình dạng đầy ấn tượng hầu như sống thực một cách
đáng sợ và xem thật hơn cả những người mang chúng hay khán giả đắm mình trong
buổi diễn. Họ chứng một tình trạng vượt lên sự hiện hữu đang có, cho họ một cái
nhìn qua bên kia biên giới của sự chết, nơi mà tất cả cánh cửa mở ra cho mọi
thế giới và mọi dạng của sự tái sinh, và nơi mà con đường dẫn ra khỏi những thứ
đó hiển hiện trước mắt nội tại hay thể hiện thành niềm mong ước được giải thoát
và giác ngộ.
Người xem và người diễn bây giờ đã trở thành một.
Họ là những người tham dự tích cực của một buổi lễ thần kỳ, buổi lẽ đã đưa họ
vào một trong những điều huyền bí cổ xưa nhất, trong đó mọi đời sống tôn giáo
có chung một gốc rễ và nơi mà con người bắt đầu thức tỉnh.