Con Đường Mây Trắng - Chương 4 - Phần 5

CUỘC ĐỜI CỦA MỘT TU SĨ VẤN LINH

Người ta không thể hình dung sự trái ngược giữa
không khí căng thẳng và uy lực của một buổi vấn linh trong đền Tscho-kyong và
buổi lễ trăng tròn của ngày rằm tháng giêng được cử hành ngay tối hôm rằm và
kéo dài đến khuya. Buổi lễ này tràn ngập tâm thức của Phật và trên mặt mọi
người đều phản ánh niềm vui này. Từ buổi sáng người ta đã cho chuẩn bị chỉ
riêng điều đó đã tạo nên sự vui thích, tương tự như chuẩn bị lễ Giáng sinh tại
các nước phương Tây. Sự giống nhau càng tăng lên ở chỗ buổi lễ được tổ chức vào
một đêm đông tháng hai, dưới ánh sáng ấm áp thân tình của hàng ngàn ngọn đèn
dầu bơ trong sân điện, mà bây giờ đã trở thành một phòng lễ đồ sộ. Người ta
căng lều bạt để ngăn chặn bớt tuyết vừa rơi chiều nay. Mặt tiền hai tầng của
chính điện được phủ bởi một tấm tranh thanka bằng lụa nhiều màu vĩ đại. Bức
thanka được buộc lên mái điện và phủ dài gần tới đất. Trên tranh, hình tượng
chính là Phật Thích-Ca Mâu-Ni từ bi nhìn xuống đám đông gồm tu sĩ và tín đồ nam
nữ, họ mặt bộ quần áo đẹp nhất và mang trang sức truyền thống của mình, đêm đến
cho buổi lễ một hình ảnh đầy màu sắc. Trước bức thanka là một bàn thờ trên đó
có hàng trăm ngọn đèn chiếu sáng, hoa tươi, trái cây, hình tượng của thú, thiên
nhân, thánh nhân và người cũng như mọi biểu tượng tôn giáo. Tất cả đều có hình
tượng với chi tiết chính xác và những màu rất nhã làm ta tưởng chúng bằng sứ.
Thế nhưng chúng tôi ngạc nhiên biết rằng, ngoài các con rồng lớn phủ phục xung
quanh, tất cả chúng được làm bằng bơ.

Các vị tu sĩ tụng niệm kinh Monlam, họ được chia
ba nhóm đứng thành ba cạnh của hình chữ nhật quanh bàn thờ. Giữa những hàng tu
sĩ là tòa ngồi đặt trên cao của Tomo Géché để trống mà trên gối của ông là
chiếc áo choàng xếp đứng. Bên cạnh đó là chiếc ghế của Lobonla, vị sư trưởng
đương thời. Nhưng vị tu sĩ vấn linh ở đâu? Chúng tôi nhìn lại hàng ghế tu si
vẫn không thấy ông đâu cả. Ngay sau khi tụng niệm xong, chúng tôi hỏi vài tu sĩ
xem vị vấn linh có tham dự buổi lễ hay không thì có người chỉ một vị vu sĩ đứng
gần đó nói: “Ông ấy đó, các vị không nhận ra sao”. Không, chúng tôi thật sự
không nhận ra và bây giờ cũng không thể tin vị tu sĩ thình thường đó lại là
người cách đây vài tiếng mình thấy ngồi trên ngai vàng.

Thế nhưng trong những tuần sau đó, chúng tôi làm
quen lui tới với ông và thấy ông là một người tốt bụng và khiêm tốn. Chúng tôi
làm bạn với ông và qua đó mà biết thêm về đời ông, về việc huấn luyện để trở
thành người vấn linh cũng như quan niệm của ông về những hiện tượng đó, thông
qua ông mà xuất hiện.

Trở lại chuyện đêm rằm thì hôm đó chúng tôi chưa
có thời giờ để chuyện trò với ông. Hôm đó chúng tôi tận hưởng “buổi lễ của ánh
sáng” với lời cầu nguyện và chúc lành cho mọi chúng sinh, về ý nghĩa thật giống với lễ Giáng sinh, với một tâm tư vui
vẻ an lạc cho tất cả mọi người cũng như cùng họ tham gia trò chơi. Các trò này
đến nữa đêm mới bắt đầu, sau các lễ nghi tôn giáo và gồm có điệu múa kỵ mã,
trong đó những chàng trai trẻ áo quần sặc sỡ cưỡi ngựa giả. Họ cưỡi với động tác khéo léo mà ta phải cố gắng mới khỏi
lầm là ngựa thật, còn thân thì bằng tre hay mây có bọc vải. Thật vui thích khi
nhìn trò chơi trẻ trung này và chắc Phật từ bức thanka vĩ đại cũng nhìn xuống
vui theo trò chơi này. Đó là sự chấm dứt kỳ diệu của một ngày tuyệt hảo mà diễn
biến của nó đã mang lại cho chúng tôi một loạt những cảm nhận hết sức con
người.

Lượng người dần dần giảm đi. Trong đêm, phần lớn
số người ở lại trong khuôn viên tu viện, còn đàn bà trẻ con thì ở trong các nhà
xung quanh. Hầu như mọi người thuộc về một gia đình, giàu nghèo, tu sĩ, cư sĩ.
Tất cả đều được ràng buộc bởi một sợi dây của niềm tin nơi sức mạnh vô song của
các bậc giác ngộ và bởi cái cùng chung của số phận con người. Niềm tin này nơi
mục đích cao cả của con người là cái làm cho người Tây Tạng không sợ quyền lực
của quỉ thần, không ngại hiểm nguy của một thế giới vô hình.

Thật là quý báu để có thể chuyện trò với tu sĩ
vấn linh về những vấn đề đã làm cho chúng tôi suy nghĩ sau buổi lễ trong đền.
Những ngày hôm sau, ông đã đến thăm chúng tôi trong phòng thờ riêng. Ông vẫn
còn chịu chút hậu quả của các lần xuất thần và thân đau khắp người. Ông hỏi tôi
có thuốc gì làm bớt đau và vì thế chúng tôi đưa ông vài vài viên Aspirin. Đối với chúng tôi, điều
bất ngờ là ông không chị uống trà hay ăn bất cứ thứ gì với chúng tôi vì quy
định không cho phép ăn uống những gì do người khác nấu. Ông ăn chay nghiêm nhặt
và phải tự tay mình nấu nướng tất cả những thức ăn uống vì phải hết sức cẩn
thận để giữ thân mình được thanh tịnh. Nếu chỉ vô ý trong chuyện ăn uống, tâm
hay thân có chút ô nhiễm là có thể dẫn đến cái chết cho ông. Chỉ một đời sống
phạm hạnh, lòng quên mình và kỷ luật cao độ mới giúp ông tránh khỏi hiểm nguy
mà những ai hiến mình cho các vị quỉ chúa của cuộc đại vấn linh phải chịu.

Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là ông có nhớ
những gì ông trả lời trong buổi đồng cốt. “Không”, ông nói, “tôi không hề biết
những gì xảy ra trong lúc xuất thần. Thế nhưng khi trở về trạng thái bình
thường, tôi đau khắp người và như kiệt sức. Thường tôi cần nhiều ngày mới lấy
lại sức”.

“Nhưng điều gì làm ông nhận trách nhiệm vấn linh
này, nếu nó nguy hiểm và đau nhức như vậy? Phải chăng ông có ý thích làm những
việc tâm linh hay đồng cốt?”

“Không phải. Hồi đó tôi có vợ con và làm nghề
chăn thú trên vùng rẻo giữa Sikkim và Lhasa. Tôi là người đơn giản, không ham
thích gì nhiều. Bà con chê tôi vì lúc nào cũng ăn mặc xuềnh xoàng, không bao
giờ sạch sẽ. Đời sống của tôi thật hoang tàng nhưng tôi thấy vui thích. Mặc dù
nghèo không biết đọc biết viết. Tôi có một căn nhà nhỏ ở Phari, ở với vợ con.
Ngày nọ tôi bị ốm, không ai cứu chữa gì được, người cứ yếu dần đến nỗi vợ tôi
nghĩ tôi sắp chết. Bà gọi một vị lạt ma và xin cầu nguyện chuẩn bị cho cái
chết. Thế nhưng khi vị lạt ma tụng niệm và hô triệu các vị hộ thần, tôi bị các
vị ấy chiếm giữ dù bản thân tôi không biết gì về các chuyện đó, các lời tụng niệm
cũng không - và khi tôi tỉnh lại thì vị lạt ma nói tôi đã được giải cứu vì chịu
phụng sự cho các vị hộ thần, các vị đã lựa tôi làm phương tiện. Thế nhưng tôi
không chịu bỏ vợ con và nói thế với vị lạt ma, vị này trả lời tôi, nếu người
chết thì ngươi cũng xa vợ con thôi, nhưng nếu người chịu phụng sự các ngài thì
không những ngươi được sống mà vợ người cũng chẳng chết đói”.

“Vợ tôi nghe lời vị lạt ma vì thế mà tôi chịu và
hứa sẽ phụng sự đạo pháp, nhất là các vị hộ thần, các vị đã cứu tôi khỏi chết.
Kể từ ngày tôi nguyện như thế thì người tôi khỏe hơn và sau một thời gian ngắn
thì bình phục hoàn toàn. Sau đó cứ mỗi lần hô triệu các vị là tôi xuất thần và
năng lực các vị chiếm lấy tôi”.

“Ông có phải chịu huấn luyện đặc biệt gì không
trước khi trở thành tu sĩ vấn linh? Hay ông phải bị kiểm tra để được các vị
chấp nhận?”

“Tất nhiên! Để chắc đây là người thật việc thật
chứ không phải lừa bịp hay tự mình bày trò, tôi được gửi đi Lhasa và được vấn
linh chính thống tại Netschung kiểm tra. Trong buổi hô triệu đó, hai người
chúng tôi ngồi cạnh nhau và sau nhiều thử thách cũng như quan sát kỹ lưỡng mọi
hiện tượng, tôi mới được làm ứng viên trở thành tu sĩ vấn linh. Tôi phải phát
nguyện sống đời độc thân và thực hành mọi nội quy của luật. Từ đó tôi được mặc
áo tu sĩ, có thầy dạy riêng, dạy đọc dạy viết và cả kinh sách. Tôi phải tuân
thủ quy luật thanh tịnh và chay tịnh hoàn toàn. Đời tôi thay đổi toàn diện và
có phép tắc hơn tu sĩ thông thường, vì chỉ một chút sai phạm là tôi bị hiểm
nguy, có thể bị các năng lực đó hủy diệt, các năng lực mà tôi đem thân tâm hiến
dâng. Sau một thời gian huấn luyện lâu dài tôi mới được chính thức thừa nhận là
tu sĩ vấn linh. Và sau đó tôi được gửi đến Dungkar Gompa, nơi mà người ta cần
một người và từ đó đến nay tôi ở đây”.

Ý nghĩ một con người thông minh, lễ độ và có văn
hóa như người này mà trước đây chỉ là một kẻ chăn thú, đối với tôi thật khó
tưởng tượng. Nhưng nhiều người biết ông từ trước xác nhận rằng ông không những
chỉ là người chăn thú bình thường mà còn là người thô lỗ và dơ bẩn, thường bị
thiên hạ chê cười. Khi ông từ Netschung trở về, không ai nhận ra ông và ai biết
ông từ trước đều không ngờ có thể có sự thay đổi như vậy.

Vài ngày sau chúng tôi được ông mời tới phòng
riêng uống trà. Ông là một người tiếp khách lịch sự và chúng tôi không những
khâm phục động tác toàn hảo của ông mà cả sự sạch sẽ tuyệt đối cũng như sự ngăn
nắp của căn phòng, cái bếp nhỏ với các nồi đồng bóng loáng ông vẫn dùng để nấu
nướng.

Càng tiếp xúc, chúng tôi càng quý ông. Ông không
cao ngạo hay hẹp hòi, luôn luôn giúp chúng tôi trong công việc nghiên cứu. Với
công việc của chúng tôi, ông cởi mở hơn phần lớn các người Tây Tạng, thí dụ ông
cho chép lại các câu chú trong đền vấn linh và đặc biệt nhất là ông cho Li
Gotami được chụp hình ông, được ghi ông lại trong tranh với tất cả áo quần ngồi
trên ngai - một điều mà trước đây chưa ai được phép.

HUYỄN THUẬT CỦA NGƯỜI TÂY TẠNG

Điều gây cho chúng tôi ấn tượng đặc biệt là thái
độ khách quan và sự chính xác hầu như khoa học của người Tây Tạng khi họ hành
xử các chuyện huyền bí và hiện tượng tâm linh, những điều mà phương Tây xem là
sản phẩm của hoang tưởng, là sự tò mò vô bổ hay mê tín dị đoan, là chuyện đồng
bóng chỉ dành cho kẻ bệnh thần kinh hay đàn bà khờ khạo mà sự cảm nhận bất
thường của họ chỉ sinh ra những ảnh hưởng không tốt. Ngược lại, người Tây Tạng
hầu như tránh loại người quá nhạy cảm hay thần kinh không ổn, họ tìm những
người hoàn toàn bình thường, có một cá tính vững vàng, những người không tự mãn
với khả năng nào đó về mặt tâm linh hay không có tham vọng riêng tư.

Hugh Richardson, vị lãnh sự đã được nhắc đến tại
Lhasa kể cho chúng tôi nghe về trường hợp đặc biệt của một người thuộc dòng quí
tộc ở Lhasa, có tiếng là người yêu đời, thực tế, ngày nọ bỗng nhiên trở thành
tu sĩ vấn linh tại Netschung khiến mọi người ngạc nhiên. Trước đó ông không
quan tâm gì đến các vấn đề tâm linh cũng không có khả năng đặc biệt gì về đồng
cốt. Ông đang ở trong độ tuổi đẹp nhất và yêu cuộc sống.

Thế nhưng đây là việc do cuộc vấn linh chính
thống nêu ra nên không ai xem thường và ông không có cách nào khác hơn là nghe
lời phán truyền. Ông bỏ công việc làm của mình (nếu tôi nhớ đúng thì trước đó
ông là nhân viên trong chính phủ), rút về Netschung, nơi ông được quán đỉnh vào
bí ẩn thiêng liêng của vấn linh đúng trong ngày nhậm chức chính thức, ông xuất
thần và các vị thần bảo hộ trong đền nhập vào ông. Ông Richardson, người biết
ông từ nhiều năm cho chúng tôi hay sự thay đổi nơi ông thật phi thường, người
ta không thể nhận ra lại con người cũ. Không ai biết trong thời gian ấn chứng,
điều gì đã xảy ra và sự thay đổi ghê gớm này sinh ra những gì.

Rõ rệt là nơi đây có những năng lực ta đã không
biết đến mà tác dụng của chúng chỉ những người trong cuộc mới hay; thông qua
họ, một vài truyền thống cổ xưa của huyễn thuật còn truyền lại đến ngày nay.

Một trong những nét kỳ lạ của sự vấn linh là mỗi
liên hệ của nó với hiện tượng và điều kiện của giới tự nhiên. Vấn linh không
những chỉ liên hệ với các yếu tố bản xứ, trong đó hình như các sức mạnh đất đai
địa hình tụ hội, mà chủ yếu xem ra nó sao hay ít nhất có liên quan đến các biến chuyển về thời tiết trong trời
đất. Vì thế, lễ vấn linh thường được tổ chức trong thời điểm của các cuộc thiên
tai như hạn hán, mất mùa, mưa đá, bão lụt. Mặc dù thật khó suy ra mối liên hệ
giữa các hiện tượng tâm lý và thời tiết nhưng tôi không thể không thừa nhận là
các tiên đoán thời tiết cũng như tác dụng của bùa phép hình như đúng thật - hay
ít nhất có quá nhiều trùng hợp kỳ lạ mà ta khó cho là sự tình cờ.

Tôi muốn lấy một thí dụ và nhắc đến lễ vấn linh
tại Gadong, được cử hành trong một lũng bên cạnh Kyitschu, khoảng bốn giờ đi
ngựa từ Lhasa. Người ta cho rằng lễ này gây nhiều uy lực lên thời tiết.
Nhà du hành cũng là nhà văn Amaury de Riencourt, trong thời gian ở Lhasa, ông
là khách của đoàn truyền giáo Anh - Ấn, được phép tham gia buổi vấn linh tại
Gadong. Để khỏi ai lưu ý, ông mặc áo tu sĩ trong dịp này. Thời tiết lúc ấy khô
kiệt trong nhiều tháng, ruộng đồng nứt nẻ và người dân bị đói kém. Vì tình hình
đó người ta tổ chức vấn linh tại Gadong. Bài báo cáo của Riencourt được coi
trọng vì tính chất khách quan và sự chu đáo trong từng chi tiết. Là người mới
đến va không rành Phật giáo Tây Tạng, ông không quá quan tâm với mọi sự xảy ra.
Thế nhưng những gì trông thấy, đã gây ấn tượng sâu sắc lên ông. Điều đầu tiên làm
ông kinh ngạc là sự biến đổi của tu sĩ vấn linh:

“Dần dần máu huyết dường như rút khỏi khuôn mặt
đã biến đổi sẵn của ông và thịt ông xem ra sắp tan rã. Trong tiếng chiêng trống
và tiếng ồn của nhạc cụ, tôi thấy rõ xương xẩu của mặt ông lòi ra, biến thành
chiếc đầu lâu, chỉ còn cái sọ và da bọc xương. Đó thật là một hình tượng hóa đá
khó tin của bác sĩ Jekyll và ông Hyde… Tôi như tê dại và hoang mang vì buổi lễ
đáng sợ này, không phải vì màu sắc huy hoàng của nó mà vì lòng tin không định
nghĩa được, là mình đã tận mắt chứng kiến một buổi lễ phù thủy”.

Thế nhưng sự ngạc nhiên lớn nhất xảy ra khi
Riencourt di ngủ sau buổi lễ: “Mưa đổ như thác và cả lũng Lhasa chỉ
toàn tiếng sấm rền”. Ông chấm dứt bài ký sự với những dòng: “Tôi bắt đầu hiểu,
sức mạnh tâm lý chứa chất nhiều hơn những gì ta thấy bằng mắt của người phương
Tây. Những điều xảy ra trong lễ vấn linh đã mở mắt cho tôi thấy và mở ra một
cánh cửa nhìn vào một thế giới kỳ diệu, nơi mà người Tây Tạng đã tìm hiểu kỹ -
một thế giới nằm giữa những sự nghiên cứu sâu xa về tôn giáo và sự hoạt động
thường ngày của đời sống trần thế: thế giới bí ẩn của các sức mạnh tâm lý kỳ
diệu, vũ trụ của du già và của những gì nằm bên kia sự chết”.

Như đã nói, thực ra mọi chuyện này không liên hệ
gì với đạo Phật và người Tây Tạng cũng xem nó như một dạng của hiện tượng tự
nhiên mà người ta có thể sử dụng như người phương Tây sử dụng điện, không pha
lẫn sức mạnh bí ẩn này với hình dung về tôn giáo hay cho rằng có một vị thượng
đế hay linh hồn vũ trụ nằm phía sau. Mặc dù người Tây Tạng không phân biệt giữa
thế giới tự nhiên và thế giới tâm thức, nhưng họ thừa nhận cái khác biệt giữa
thế gian và siêu thế gian, hoạt động vật chất và hoạt động tâm linh, tuy thế
lại không phủ nhận mối quan hệ lẫn nhau của chúng xuất hiện trong lĩnh vực nằm
giữa hai cực. Tất cả đều tùy thuộc nơi mức độ, trong đó người ta biết đến mối
quan hệ nội tại giữa những hiện tượng xem ra không liên quan gì đến nhau; ý
thức đó có được là nhờ sự khám phá cái qui luật chung, qui luật sinh ra chức
năng của chúng.

Vì thế đối với người Tây Tạng, một nhà huyễn
thuật không nhất thiết phải là một người ngoan đạo sùng tín mà là người biết sử
dụng cái quy luật diễn tả sự song hành giữa các hiện tượng vật lý và tâm lý.
Nếu ông là một con người sống thiên về tâm linh thì sẽ sử dụng kiến thức của
mình để phục vụ cho mọi loài, nếu không thì sẽ tận dụng nó cho cá nhân mình.
Đây là cái phân biệt hắc đạo và chính đạo, mặc dù cả hai đều có một nguyên lý
chung. Cũng như khoa học, sức mạnh huyễn thuật tự nó không tốt, không xấu; nó chỉ
tùy nơi ta sử dụng nó như thế nào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3