Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 1

PHẦN THỨ NĂM

TRỞ LẠI MIỀN TÂY TÂY TẠNG

NGỌN NÚI THIÊNG

Có những ngọn núi chỉ là núi, nhưng cũng có ngọn
có tính cách riêng rõ rệt. Tính cách một ngọn núi không chỉ là hình dáng kỳ lạ
khác với những ngọn khác - cũng như khuôn mặt đặc biệt hay thái độ khác lạ của
một người chưa nói lên nhân cách của người đó.

Nhân cách là một sức mạnh có tác động lên người
khác mà nó không hề muốn; và uy lực này bắt nguồn từ sự vững vàng, sự dứt khoát
và sự hòa điệu của tính cách riêng. Khi những tính chất này trong một con người
đạt tới sự viện toàn thì đó là một vị thầy xứng dáng của loài người và ta thấy
nơi người đó là bình chứa của những năng lực thiêng liêng. Còn khi những tính
chất đó lại nằm trong một ngọn núi thì nó xuất hiện với ta như bình chứa của
sức mạnh vũ trụ và ta cảm nhận đó là một ngọn núi thiêng.

Uy lực của một ngọn núi như thế quá lớn đồng thời
quá tinh tế đến nỗi con người ở gần hay xa đều có cảm giác mình bị thu hút, như
bị hấp lực của một thanh nam châm vô hình, và chấp nhận mọi nhọc nhằn và kham
nhẫn với một ham muốn không giải thích được để đến gần với uy lực tốt lành đó,
để được tỏ lòng kính trọng nó.

Không ai phong cho một ngọn núi như vậy một danh
hiệu thiêng liêng nào, thế nhưng ai cũng thừa nhận nó. Sự thiêng liêng này
không cần giải thích vì không ai nghi ngờ gì cả; không ai phải tổ chức cúng tế
vì trước nó con người đã choáng ngợp và chỉ biết diễn tả nỗi cảm xúc của mình
bằng lòng kính sợ.

Thái độ kính sợ và sùng tín đó không phải do
những con số khoa học, như chiều cao của núi, cái mà con người văn minh ngày
nay hay bị ấn tượng. Cũng như con người có tín ngưỡng cũng không hề có ý niệm
“chinh phục” núi non. Ngược lại, người đó để cho ngọn núi bao trùm lên mình, để
cho uy lực của nó ngập tràn trong mình. Người đó mở lòng để đón cái thần thức thiêng liêng cảm hứng và được tham dự vào
tự tính của nó. Nếu con người thời đại ngày nay do tham vọng và lòng tự ngã quá
lớn muốn chinh phục một ngọn núi bằng cách làm kẻ đầu tiên đầu tiên leo lên
đỉnh tâm thức của chính mình hơn việc dùng thân mà leo lên đỉnh. Đối với người
sùng tín, ngọn núi là một biểu tượng thiêng liêng và cũng như không ai đạp chân
lên tranh tượng tôn thờ, thì người đó cũng không nghĩ sẽ đặt chân lên đỉnh núi
thiêng.

Muốn nhận rõ kích thước của một ngọn núi ta phải
đứng xa nó; để thâu nhận dạng nó vào lòng phải đi quanh nó; để hiểu vui buồn
của nó ta phải biết quan sát nó trong mọi thời khắc của năm: lúc mặt trời mọc
và lặn, giữa trưa và trong sự tĩnh lặng nửa đêm, trong những ngày mưa tối và
dưới bầu trời xanh, trong tuyết mùa đông và giữa những cơn bão. Ai hiểu ngọn
núi theo kiểu này, người đó sẽ đến gần với tính chất của nó, nó có tự tính sống
động và đa dạng như của con người. Núi non có lớn dậy và có điêu tàn, chúng
biết thở và mang đầy nhịp sống. Chúng qui tụ năng lực vô hình xung quanh: năng
lực của khí, của nước, của điện và từ; từ chúng mà sinh ra mây và gió, mưa và
bão, thác và sông. Chúng cho môi trường xung quanh được ngập tràn đời sống và
cho vô số sinh vật thực phẩm và chỗ ẩn náu. Trong những thứ đó, ta thấy kích
thước của một ngọn núi.

Thế nhưng trong số những ngọn núi uy lực nhất thì
cũng chỉ có một số ít mang tính chất phi thường, ở vị trí của biểu tượng cao
tột của nỗ lực con người như trong mọi nền văn minh và tôn giáo đã nói tới, và
chỉ số ít này sẽ trở thành những mốc trên bước đường vô tận của con người hướng
tới sự toàn hảo và thực chứng, chúng cũng là bản chỉ đường, qua những mục đích
thế gian để vương tới cái vô cùng của vũ trụ.

Trong những lũng sâu đầy sương mù của đời sống
hàng ngày, chúng ta đã quên mối liên hệ của mình với trời sao và vì thế ta cần
sự hiện diện của những bảng chỉ và mốc đường mạnh mẽ này để đánh thức mình ra
khỏi sự tự mãn bản thân. Cũng không có bao nhiêu người nghe tiếng gọi đó, biết
cảm nhận thôi thúc đó để tự giải phóng mình ra khỏi cái vỏ nặng nề của ý thích
nhỏ bé, khỏi sự say mê tiền bạc và thú vui; thế nhưng những ai mà tiếng gọi đã
tới tai và lòng ước ao về những gì cao đẹp vẫn còn sống động, những kẻ đó làm
thành một dòng người hành hương, nó giữ cho truyền thống và kiến thức của suối
nguồn những niềm cảm hứng này được còn sống mãi.

Cũng nhờ thế mà danh tiếng của Ngân Sơn (Dailas)
tỏ rộng và vượt trội lên mọi ngọn núi thiêng khác trên thế giới. Từ thuở xa
xưa, nó là đích hành hương của người sùng tín. Không có núi nào có thể sánh với
Ngân Sơn vì nó là chỗ nối của hai nền văn minh lớn nhất và lâu đời nhất của
loài người, mà truyền thống của chúng trải qua hàng ngàn năm để tồn tại tới
ngày nay; Ấn Độ và Trung Quốc. Đối với Ấn Độ giáo và Phật giáo, Ngân Sơn là trung
tâm của thế giới. Theo truyền thống Sanskrit cổ nhất thì trục của vũ trụ được
gọi là núi Tu-di và đây
không phải chỉ có ý nghĩa vật lý mà còn cả thế giới siêu hình. Và do thân thể
tâm - vật lý của ta là một hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ nên Tu-di là trục của
mọi lĩnh vực siêu thế. Và cũng như trong hình ảnh thu nhỏ tâm - vật lý của con
người, trung tâm của “hoa sen ngàn cánh” là chỗ tối cao thì cũng như thế, Tu-di
thể hiện ra trên bình diện địa cầu tại Ngân Sơn, nó là chỗ vươn cao của đền thờ
vô hình của những năng lực siêu việt; đối với mỗi ai sùng tín thì nó hiện ra
như biểu tượng cao nhất. Thế nên đối với Ấn Độ giáo thì đó là trú xứ của thần
Shiva, đối với Phật giáo nó là man-da-la vĩ đại của các vị Thiền Phật và
Bồ-tát, như trong Demtschog Tantra, nó được mô tả là man-da-la của “an lạc cao
quí nhất”.

Đây chưa phải là chỗ để nói đến những giáo pháp
phức tạp về siêu hình và tâm lý học của Ấn Độ giáo và Mật tông Phật giáo. Thế
nhưng câu hỏi mà ai cũng phải nêu lên là: Tại sao trong những ngọn núi hùng vĩ
của dãy Himalaya thì đỉnh này được chọn và được sự thừa nhận chung là trung tâm
của thế giới?

Hãy nhìn lên tấm bản đồ chỉ vị trí của Ngân Sơn
trong cao nguyên Tây Tạng và mối liên hệ của nó với hệ thống các sông của Ấn Độ
và Tây Tạng, ta sẽ thấy lý do trực tiếp. Ngân Sơn chính là điểm cao nhất của
“mái nhà thế giới” (Roof of the World), từ mà người ta dành cho cao nguyên Tây
Tạng và xuất phát từ trung tâm địa lý này là một số lớn những con sông chảy đi
mọi hướng, có thể so sánh với những căm của một bánh xe, chúng gặp nhau nơi
trục. Những con sông này là Brahmaputra, Indus, Satlej và Karnali. Tất cả chúng
đều phát nguồn từ khu vực Ngân Sơn - Manasarovar, đó là vùng cao nhất của cao
nguyên Tây Tạng.

Trong các tài liệu cũ, các con sông này đều được
xem như chảy ra từ hồ Manasarovar nằm dưới chân Ngân Sơn và người ta cho rằng
nước chảy bảy vòng quanh vùng thiêng này trước khi chảy về bốn phía và với cách
này đã biểu lộ lòng kính trọng ngai vàng của các vị thiên nhân, đúng như truyền
thống đi nhiễu xung quanh (pradaksina). Người Tây Tạng gọi tên con sông
Brahmaputra xuất phát từ phía đông của vùng Ngân Sơn - Manasarovar, là Tántchog
- Khambab, có nghĩa con sông “chảy từ hàm ngựa”. Sông Satlej, bắt nguồn phía
tây được gọi tên là Langtschen-Khambab, có nghĩa “chảy từ miệng voi”. Sông
Indus, từ phía bắc, được gọi là Senge-Khambab “chảy từ miệng sư tử” và sông
Karnali (mà tại bình nguyên có tê là Gogra) được gọi là Magtcha-Khambab “chảy từ miệng chim công”. Các loài
thú này là vật cưỡi hay tòa sen của các vị Thiền Phật. Vì thế tên của những con
sông này nói lên chúng là một phần của một man-đa-la vĩ đại mà trung tâm là
đỉnh Ngân Sơn thiêng liêng.

Mối liên hệ tôn giáo và văn hóa giữa Ấn Độ và Tây
Tạng nhờ những dòng sông này mà trở nên rõ nét. Chúng thể hiện rõ nhất ở con sông Indus và
Brahmaputra, hai con sông đó hiện ra như hai cánh tay khổng lồ từ vùng Ngân Sơn
Manasarovar, ôm lấy tổng thể của Himalaya và bán đảo Ấn Độ, trong đó sông Indus
chảy ra vịnh Ai Cập ở phía tây và Brahnraputra chảy ra vịnh Bengal phía đông.

Tất cả những con sông này không phải phát nguồn
từ sườn Ngân Sơn hay Manasarovar nhưng các lũng của chúng chạy trên cao nguyên
của Ngân Sơn, thế nên ngọn núi này trở thành mốc dẫn đường của các con lộ xuyên
núi quan trọng, chúng nối liền nam với bắc, tây với đông và gặp nhau dưới chân
núi Ngân Sơn.

Nếu ta cắt đi vài trăm mét đỉnh Everest hay bất
cứ một đỉnh tiếng tăm nào của Himalaya thì chúng không còn gì làm cho mình khác
những ngọn núi khác; chúng sẽ chìm trong bản đò và chìm vào trong một loạt
những đỉnh núi vô danh không ai quan tâm đến. Thế nhưng đối với Ngân Sơn thì
khác, dù chiều cao nó có ít đi chăng nữa, nó vẫn không mất tầm quan trọng của
mình, vì hình dáng phi thường và vị thế trung tâm của nó trong những rặng núi
và trong hệ thống những dòng sông Ấn Độ Tây Tạng đã dành cho nó một vị trí đặc
biệt.

Ngọn núi nằm hoàn toàn độc lập ngay trung tâm của
dãy Bắc Himalaya (còn được gọi là dãy Sven - Hedin) đủ để có thể đi vòng quanh
núi trong hai ba ngày; dạng hình của nó đều đặn gần như là mái tròn của một
ngôi đền vĩ đại, đền nằm trên nền cũng có hình dạng kiến trúc của nhiều khối.
Và cũng như các ngôi đền Ấn Độ luôn luôn có hồ nước thiêng thì phía nam Ngân
Sơn cũng có hai hồ thiêng liêng. Manasarovar và Rakastal, trong hai cái thì cái
thứ nhất có hình mặt nhật, biểu tượng cho sức mạnh của ánh sáng, còn cái sau có
hình trăng lưỡi liềm, biểu tượng cho sức mạnh ẩn tàng của bóng đêm, sức mạnh đó
- nếu tự tính của nó không được nhận rõ và đưa vào vị thế đúng đắn - sẽ hiện
thành năng lực đen tối của ma quái. Những ý niệm này hiện rõ trong tên gọi của
hai hồ: manas có nghĩa thức hay ý thức; đó là trú xứ của khả năng nhận thức,
sức mạnh của ánh sáng giác ngộ; rakas hay raksara là ma quái, cho nên Rakastal
được gọi là hồ ma quỉ.

Những biểu tượng nhật nguyệt của những hồ thiêng
này được trình bày theo cách Tây Tạng ở trang 268, trong đó mặt trời hiện trên
cái hồ tròn Manasarovar và mặt trăng trên hồ Rakastal hình lưỡi liềm.

Biểu tượng nhật nguyệt thường được vẽ trong các
bức tranh Tây Tạng, trong đó chư Phật, thiên nhân va thánh nhân được trình bày.
Mặt trời mặt trăng biểu tượng hai nguồn năng lực tâm lý, chúng là hai dòng chảy
nằm bên phải và bên trái của cột sống. Trong phép du già, hai dòng năng lực đó
được hợp nhất trong một nguồn lực trung tâm và vươn lên qua các trung khu hay
mức độ nhận thức (luân xa), cuối cùng nó đạt mức độ cao nhất, bốn chiều của ý
thức giác ngộ. Tương tự, Ngân Sơn biểu tượng cột sống của thân người, nó cũng
chính là trục của vũ trụ có ý thức, vũ trụ đó. Các mức độ của đời sống chính là
các mặt cắt nằm ngang của ngọn núi, chúng nằm đều đặn và nổi bật như các tầng
của một đền thờ Ấn Độ.

Hình nói trên cũng vẽ hồ Manasarovar nằm cao hơn
hồ Rakastal, điều đó đúng với địa hình thực sự cũng như phù hợp với biểu tượng
tâm - vật lý, theo đó thì Manasarovar là luân xa cao nhất và Rakatal là luân xa
thấp nhất. Luân xa thấp nhất là nguồn gốc của mọi chứng thực. Luân xa là chỗ
ban đầu, luân xa đỉnh đầu là mục đích của hoạt động tâm linh.

Đây cũng là lý do tại sao mà đạo Phật gắn liền
hoạt động của các vị Bồ-tát trong đời sống cuối cùng của các ngài trên mặt đất
- nhằm chứng mức giác ngộ cao nhất là Phật quả - với Manasarovar. Theo truyền
thuyết thì ngày nọ hoàng hậu Ma-Gia mơ thấy giường nằm của mình được hộ thần
của hồ Anotatta (tiếng Pali của hồ Manasarovar) mang nhúng vào nước hồ, nhờ đó
mà mọi ô nhiễm và bất toàn của bà được rửa sạch để vị Phật tương lai trú được
trong thân bà. Phật xuất hiện trong giấc mơ của bà thành một con voi trắng, đến
từ một đám mây trên núi Ngân Sơn và nhập vào mình bà. Điều này cho thấy Ngân
Sơn và Manasarovar cũng được Phật tử tôn thờ và các chốn đó đã được thờ cúng kể
từ thời Vệ-đà, nếu không muốn nói từ thời phát sinh của văn minh nhân loại.

Theo kinh Vệ-đà thì Brahma, chúa tể vũ trụ đã tạo
dựng Manasarovar và cho cây Jambu thiêng liêng mọc giữa hồ, cây này mắt trần
không thấy được. Vì thế thế giới này của chúng ta được gọi là Jambudvipa (Nam
thiệm bộ châu), có nghĩa nhờ hoa trái của cây thiêng này mà nước hồ Manasarovar
trở thành cam lồ cho đời sống. Ngọn cây trong hồ của nhận thức cao tột ý nghĩa
biết bao - gần gũi biết bao với cây ý thức trong vườn địa đàng! Tôi nghĩ trên
trái đất khó có chỗ nào đáng được quí trọng và xứng đáng để xem là địa đàng như
vùng Ngân Sơn - Manasarovar, mà người Tây Tạng xem là trung tâm của Nam Thiệm
bộ châu (thế giới loài người), tâm điểm của mọi xứ sở, mái nhà của thế giới và
xem nó là “xứ sở của vàng ngọc, suối nguồn của bốn con sông lớn, đỉnh cao của
chúng ta là đền pha lê của Ngân Sơn và mang tấm gương màu xanh huyền bí của
Manasarovar”.

Nơi mà người hành hương bắt đầu đi vòng quanh
ngọn núi htiêng từ một hẻm núi, theo hình vẽ, bên trái Ngân Sơn, đó là cửa vào
của “thung lũng phía tây A-Di-Đà”. Đường đi vào bên phải Ngân Sơn, được vẽ bằng
một tháp đá (dưới mặt trời), là Dolma-La, con đường của Tara, đó cũng là điểm
cao nhất (6000m) của đường hành hương. Hình tam giác màu đen dưới tháp là một
chiếc hồ con, đường tín đồ Ấn Độ giáo gọi là Gaurikung và Phật tử Tây Tạng gọi
là “hồ đại từ bi”. Ta sẽ trở lại trong phần thứ ba của chương này về lễ nghi đi
quanh ngọn núi thiêng.

Bức hình nguyên thủy của Tây Tạng còn chứa đựng
thêm một số chi tiết nhưng chúng ta phải bị bỏ qua để giữ rõ nét, vì mục đích
của bức vẽ này nhằm giúp độc giả có hình tượng chính xác về Ngân Sơn -
Manasarovar, như nó được nhìn từ ngã đường Gurla, đó là nơi mà khách hành hương
thấy vùng đất thiêng lần đầu. Đó là chỗ duy nhất mà ta thấy cả hai hồ lẫn Ngân
Sơn một lúc. Kích thước trong hình dĩ nhiên là không giống như thật, nó chỉ ghi
lại ấn tượng trong con mắt tâm linh. Thế nhưng mặc dù đã bị ấn tượng hóa, hình
dạng cảnh vật vẫn rất gần sự thực, và dù một tấm hình chụp cũng không đem lại
cho ta hình ảnh thật hơn được.

Thật đáng lạ lùng, cả vị trí địa lý của hai hồ
cũng phù hợp với tính chất sáng - tối, đêm - ngày. Manasarovar nằm hướng đông,
hướng mặt trời mọc, chỗ ngày bắt đầu, còn Rakastal nằm hướng tây, mặt trời lặn,
nơi bắt đầu bóng đêm. Người Tây Tạng gọi Manarasovar là tso-mapham, có nghĩa
“hồ đại lực của chư Phật’, còn có nghĩa “người chiến thắng”, trong lúc Rakastal
được gọi là Lhasa-nag-tso, “hồ ma quái”.

Phù hợp với ý nghĩa này, trên hồ tso-mapham có
nhiều tu viện và thất độc cư, trong lúc hồ kia không có bóng người. Mặc dù cảnh
đẹp nhưng hồ này có một không khí kỳ lạ, đáng sợ. Thế nhưng dù bị xa lánh và
kính sợ, hồ này vẫn thiêng liêng như chính hồ sinh đôi với mình; vì rằng những
năng lực nếu đối với ta có đáng sợ và mang tính hủy hoại, nằm sâu trong bóng
tối, thì tự tính của chúng vẫn là thiêng liêng cũng như các năng lực mang ánh
sáng và thiện mỹ.

Mối liên hệ lẫn nhau giữa các năng lực này - nhật
- nguyệt, ý thức - vô thức - mà ta hay gắn liền với nguyên lý sáng tối, âm - dương, chủ động - thụ động, hành động - nhận thức,
sắc không; tất cả những điều này đều là phát hiện lớn của triết lý tantra. Ai
đã nghiệm ra được sự thật này, người đó xứng đáng được tôn thờ thần núi Ngân
Sơn cao cả, bất kể thấy đó là dạng hình của Shiva, người phá hủy mọi ảo giác tà
kiến, hay dạng của Demtschog, kẻ đã làm như Shiva mà xé miếng da voi của vô
minh và mười hai cánh tay của nó là mười hai mắt xích của nhân duyên (thập nhị
nhân duyên).

Chỉ ai thấy cái thiêng liêng trong dạng hình đáng
sợ, kẻ đó mới dám nhìn sự thật tận mắt, không bị nó áp đảo và lung lạc - chỉ
người đó mới đủ sức chịu đựng sự tĩnh lặng ghê gớm hiểm nguy và khó nhọc mà
người hành hương phải trả để đứng trước sự hiện diện thánh thần và vùng thiêng
liêng nhất trên trái đất này. Ai dám từ bỏ sự thoải mái và an toàn, âu lo cho
cuộc sống riêng mình người đó mới hưởng được biến cố vô song của niềm vui cao
tột này. Khả năng tâm linh của người đó hàu như chuyển hóa, hầu như tăng lên
gấp bội: khả năng nhận thức, sự cảm nhận tinh tế như mở rộng đến vô cùng, ý
thức mở ra với những kích thước mới của thực tại, người đó sẽ nhận được những
linh ảnh, những âm thanh kỳ lạ sẽ vang bên tai, những trạng thái hầu như xuất
thần sẽ xuất hiện, trong đó những gò bó và trở ngại ngày trước sẽ tan đi như
một tia chớp, nó chiếu rọi những gì mà đến nay còn nằm trong bóng tối. Hầu như
ý thức cá thể, vốn hay làm lệch và mờ đục cái nhìn lên sự vật, bỗng nhiên rút lui
và nhường chỗ cho một ý thức toàn thể bao trùm lên vũ trụ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3