Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 4

MỘT TU VIỆN ĐẠO BON

Li và tôi lòng còn tràn ngập hình ảnh của Ngân
Sơn, sau một ngày đường đi về hướng tây thì chúng tôi đến một nơi mà màu đỏ sậm
của cảnh vật cho thấy dường như thiên nhiên muốn nói điều gì đặc biệt. Thực tế
thì đây là một nơi chốn đặc biệt, chỗ một năm mới hồi sinh một lần, và là ngày
trăng rằm của tháng sáu, đó là lúc mà cả Tây Tạng cử hành lễ Phật Thích-Ca
Mâu-Ni giáng sinh. Trong dịp này, khách hành hương từ bốn phương lũ lượt đến
đây, vì trong đêm này xảy ra một điều lạ trước mắt tất cả mọi người: trăng tròn
sẽ lên như một vòm lửa treo trên đỉnh băng của Ngân Sơn và ánh trăng sẽ vẽ hình
ngọn núi thiêng trên đó màu đỏ của sườn núi nằm nghiêng mà dưới chân sườn đó
chính là chỗ mà khách hành hương tụ tập. Trong phút này trời và đất giao hội,
đó chính là lúc mà các thiên nhân sống trên trú xứ của thánh thần, theo một
nguồn sáng giáng hạ xuống với thế giới con người. Người ta cho rằng, đây là lúc
mà các bậc giáo giác ngộ và tùy tùng lơ lửng trong ánh trăng, đi từ đỉnh Ngân
Sơn xuống đất và tụ họp trên thảm đất màu đỏ để ban phước cho những người đang
tụ hội bằng sự hiện diện rực rỡ của mình. Đó là dịp vui của sự gặp gỡ siêu
việt, buổi lễ vũ trụ đích thực, trong đó ánh sáng là thân xác máu thịt của
thánh thần hiện diện và tim người là bình chứa thiêng liêng để hứng và giữ nó.

Trái đất, chỗ của “phiên chợ’ này được cử hành,
đã được ban phép và khi chúng tôi cắm lều ngủ ở đó một đêm thì tâm tư lạ thường
của mình đã được thấm nhuần một cảm giác an bình sâu xa. Ngày hôm sau trước khi
rời nơi đó ra đi, mỗi người chúng tôi mang thêm một nắm đất đỏ để kỷ niệm nơi
chốn thiêng liêng và xem nó như món quà cuối cùng của Ngân Sơn trao tặng.

Bốn ngày sau khi rời núi, chúng tôi đến một thung
lũng thấp nằm giữa những vách đá dựng đứng. Mặt lũng phẳng, xanh và có một dòng
suối cạn, đó là đoạn đầu của sông Langtschen-Khambab uốn lượn quanh vùng đất
nhiều bụi cây và cỏ xanh. Khoảng chiều tối, chúng tôi thấy một tu viện màu
trắng, nổi bật trên nền vách đá đen lỗ chỗ những hang động.

Toàn bộ cảnh vật này nhắc tôi nhớ đến thung lũng
của các nhà vua Theben tại Ai Cập, với những đền đài hình khối bên cạnh sông
núi vắng bóng thảo mộc. Thế nhưng điều ngạc nhiên ở đây là các nhà cửa xem ra
mới và sạch, sơn trắng viền đỏ, trông như một pháo đài của một thung lũng cô
đơn không người ở.

Người hướng đạo của đoàn chúng tôi (với tám con
trâu, chúng tôi phải đem theo lương thực một trăm năm, vì đi qua những vùng
không người ở, khó mua dự trữ) cho biết tu viện này mới xây lại sau này, vì
cách đây vài năm đã bị cướp bóc và đốt rụi, khi giặc cướp từ Turkestan xâm
chiếm. Người trong tu viện lớp bị giết, lớp bị ngược đãi và ngay cả tu viện
trưởng cũng bị cướp hết áo quần, đánh đập và bỏ mặc nằm lại không một mảnh vải
che thân. Thế nhưng ông sống sót và trốn về lại các hang động trên núi trong
các cốc thiền định cũ. Sau ngày xây dựng lại tu viện ông vẫn ở trong cốc.

Chúng tôi hy vọng kiếm được một chỗ nghỉ thoải
mái trong một tu viện, nhưng thất vọng khi không thấy dấu hiệu nào của đời
sống, cả khi đến gần. Thật là một hiện tượng hiếm thấy trong một xứ sở mà người
ta hay tò mò và một đoàn người ngựa từ xa đến thường là một biến cố quan trọng.
Một tiếng chó sủa cũng không nghe thấy, điều đó chỉ có thể có nghĩa là ở đây
không có người. Thế nên chúng tôi cắm lều ngoài khuôn viên tu viện và chuẩn bị
nghỉ tối.

Ngày hôm sau, chúng tôi cho người hướng đạo lên
gặp sư trưởng để xin đến thăm viếng. Sau khi được nhận lời, chúng tôi theo một
ngõ hẹp đến chân vách đá, leo cầu thang ngược cho đến một chiếc cửa sập mà khi
chúng tôi đến thì nó được kéo lên cao. Sau vài bậc thang nữa thì chúng tôi ngồi
trong một hang động sáng sủa, đối diện với vị sư trưởng. Ông ngồi trên cái tòa
bọc trong một khung gỗ trang hoàng cẩn thận. Ghế ngồi này làm ta nhớ đến khung
ghế của các người bảo vệ có cửa sổ phía trước theo kiểu Bắc Phi. Thật là một sự
tương phản kỳ lạ với chỗ ở trong một hang đá! Vách động được đẽo láng kỹ lưỡng
và trình bày với những bích họa chi li, trên đó có vô số hình tượng Phật. Thế
nhưng nhìn kỹ thì bích họa đó chỉ là giấy in nhiều màu mà các tấm rời được dán
sát với nhau để vách tường hầu như được dán bởi một tấm duy nhất. Miếng giấy in
này được dán nhiều chỗ, nhưng nhờ lặp lại nhiều lần nên nét trang trí được tăng
lên và cũng gây ấn tượng của bích họa “Vạn Phật” truyền thống mà ta hay thấy
trong các điện thờ, hang động. Ánh sáng mờ nhạt xuyên qua cửa sổ của hang cũng
làm cho màu sắc thêm hòa hợp, làm chúng rất giống với các bích họa thật. Vị tu
viện trưởng tuổi trung niên, ăn mặc giản dị, có khuôn mặt thông minh và thái độ
trân trọng.

Sau khi chào xã giao và uống trà bơ, chúng tôi đi
vào chủ đề chính, đó là việc cần thiết phải có một đoàn tùy tùng cho đoạn đường
tới của chuyến hành trình, vì những người hiện đi với chúng tôi phải về Purang lại.
Chúng tôi đi gần suốt cả tháng với họ và họ không muốn đi quá những nơi đã
biết. Khắp nơi đều như thế cả và ta buộc phải thuê từng nhóm người và vật cho
từng đoạn hành trình - tức là một chỗ có người ở qua một chỗ khác. Trong miền
tây Tây Tạng thưa người thì một đoạn như thế kéo dài vài ngày hay cả tuần, và
khi tới nơi thì người và vật đều rút về ngay, không cần biết người lữ hành có
kiếm được phương tiện mới hay không.

Vị sư trưởng vui vẻ trả lời chúng tôi rằng ông
không thể kiếm phương tiện chuyên chở và tùy tùng vì mùa này không thể tìm ra
người lẫn trâu. Đến khi chúng tôi lưu ý rằng mình có lệnh của Lhasa được thuê
người và mua thực phẩm với giá địa phương và cho ông xem giấy xác nhận, thì ông
cười chúng tôi như muốn nói: tất cả đều là trò đùa vô duyên. Thái độ ông dường
như đổi hẳn từ tử tế qua bất hợp tác. Rõ ràng ông cho chúng tôi thấy ông không
chịu thi hành lệnh của Lhasa. Thái độ chống báng của ông đối với Lhasa làm
chúng tôi bất ngờ vì không thấy có lý do nào để ông chống đối cả. Chúng tôi nghỉ
tốt nhất là đừng vin vào điều lệnh giấy tờ gì mà hãy kêu gọi lòng hảo tâm tôn
giáo của ông giúp mình trong cảnh khó khăn. Thế nhưng ông vẫn không mềm lòng và
cho hay vài người mà ông có thể điều động, kể cả trâu bò hiện đang phải thu
hoạch vụ mùa trong các lũng xung quanh, nên không thay đổi được tình thế.

Chúng tôi biết rõ là không xin xỏ được gì nên chỉ
còn biết tỏ lòng khâm phục cá tác phẩm nghệ thuật trong động của ông. Nhân dịp
này chúng tôi biết thêm là ông đã nhiều lần đi Ấn Độ và nhờ in vẽ lại một loạt
những bức tranh tôn giáo của Tây Tạng - chính là những bức chúng tôi thấy trên
vách tường. Trong các dịp này ông cho in một ít kinh điển quan trọng và cho tôi
xem mẫu. Mặc dù tựa đề thì tôi rõ nhưng trong bài có nhiều danh tánh và thần
chú lạ kỳ, nó làm tôi nghi ngờ không biết có phải kinh sách đạo Phật hay không.
Thế nhưng vì không kiểm tra thêm được nên tôi nghĩ hay hơn là cứ để như thế và
thay vào đó là phát biểu lòng cảm phục của tôi đối với sự cố gắng của ông phụng
sự đạo pháp và chất lượng của các bản in. Rõ là ông phải chi nhiều tiền để nhờ
làm những thứ này và tôi không hiểu ông sống trong hang động cô đơn này thì lấy
phương tiện đâu để vừa xây tu viện, vừa làm các công việc văn hóa và in kinh
điển như thế. Chỉ có người có danh tiếng, với ảnh hưởng rộng rãi mới làm được
điều đó. Nhưng ai là tín đồ, ai là học trò của ông người ta nói với tôi, ông có
vài vị ni sống trong các hang động xung quanh, ngoài ra không thấy có ai khác.
Thế nên chúng tôi xin phép được thăm tu viện và được chấp nhận. Ông hứa mở cửa
và sẽ có người dẫn chúng tôi đi xem.

Chúng tôi từ giã ông và trở về lều trại, lúc mà
người của chúng tôi cũng đã xếp dọn và chuẩn bị gấp rút để lên đường về - hầu
như họ sợ chúng tôi bắt phải làm thêm hay đổ trách nhiệm về an ninh của chúng
tôi lên vai họ. Dù cho được trả thêm tiền họ cũng không chịu ở nên cuối cùng
chúng tôi ở lại một mình giữa các vách đá và tu viện vắng người. Tình cảnh này
thật kỳ quái: một tu viện rộng rãi, xây dựng vững chắc mà không có bóng người -
chỉ vị sư trưởng và vài ni cô chôn mình trong động, khắp nơi chẳng ai có thể
cho chúng tôi vài lời khuyên hay giúp đỡ điều gì! Và điều lạ hơn là, vị sư
trưởng chẳng cho chúng tôi ở tạm trong một cái phòng nào đó, mặc dù ông biết
chúng tôi là khách hành hương Phật giáo - hay chính đó là lý do mà chúng tôi
không được ở?

Ngày hôm sau người bảo vệ tu viện đến lều kiếm
chúng tôi và dù hơi ngại bỏ lều trống, cuối cùng chúng tôi cũng đi vì nghĩ rằng
trong vùng không người ở này chắc không ai trộm thực phẩm hay các thứ khác.

Khi đến gần tu viện, chúng tôi thấy trước khuôn
viên một căn nhà thấp, dài, có nhiều phòng nhỏ. Nếu theo vị trí, tức là trước
mặt chính của viện, thì đây phải là một chỗ thiêng liêng nằm ngoài khuôn viên,
để đi vòng tròn theo nghi lễ, mà thường người ta xây thành một bức tường hay
một tháp nhỏ. Chúng tôi ngạc nhiên được nghe đó chỉ là nhà vệ sinh tắm rửa,
dành cho những người hành hương ở xa đến trong các dịp lễ. Đây hiển nhiên là
một cái gì đáng ca ngợi và cho thấy vị sư trưởng đánh giá cao sự vệ sinh thân
thể. Thế nhưng chúng tôi vẫn không hiểu tại sao nhà này lại nằm trước cổng
chính của tu viện. Hay nó là một biểu tượng để nói lên sự sạch sẽ cũng chính là
sự thiêng liêng?

Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy người bảo
vệ đưa chúng tôi đi quanh tu viện ngược chiều kim đồng hồ, điều mà tại cả Tây
Tạng cũng không bao giờ có, nếu không muốn nói đó là sự nhục mà một thánh địa.

Vì chỉ người theo đạo Bưn mới đi vòng quanh đền,
một kiến trúc tôn giáo hay một thánh địa (thí dụ Ngân Sơn) ngược chiều kim đồng hồ; chúng tôi càng nghỉ rằng, vị
sư trưởng không phải là Phật tử mà là tín đồ đạo Bưn. Khi vào chánh điện thì
không còn nghi ngờ gì nữa, vì tất cả những gì thấy ở đây đều ngược lại hay sự
bóp méo truyền thống đạo Phật. Thí dụ hình chữ vạn của đạo Bưn hướng về phía
bên trái, trong lúc đạo Phật hướng về phía phải.

Mặt khác, tín đồ đạo Bưn hình như bắt chước mọi
tính chất tiêu biểu của hình tượng đạo Phật. Họ có riêng các vị Phật và Bồ-tát,
các vị hộ pháp riêng cũng với hình tượng phẫn nộ, các vị thiên thần, địa thần
riêng, tên các vị đó khác với tên các vị trong đạo Phật, mặc dù hình dáng bên
ngoài không khác bao nhiêu. Điều đó cũng đúng cho kinh sách của đạo Bưn. Không
nhiều thì ít, các sách đó bắt chước kinh sách của đạo Phật và thậm chí có cùng
tên (thí dụ kinh sách Bát Nhã), nhưng tín đồ đạo Bưn đề tên tác giả khác, cho nó có một khung cảnh hay nền tảng và
thần chú khác; thí dụ thay vì OM MANIPADME HUM thì họ gọi là OM MATRI
MUYSALEDU. Gốc các vị thần chính của đạo Bưn là hiện thân của không gian, của
ánh sáng, của sự vô tận và của sự thanh tịnh và vì thế mà cũng dễ đồng hóa các
vị ấy với hình ảnh cá vị Thiền Phật và Bồ-tát và dễ tiếp nhận toàn bộ các biểu
tượng của truyền thống Phật giáo, như tòa sen, vật cưỡi, ấn quyết, màu sắc của
thân; các đàn tràng hay pháp khí như kim cương chử và chuông, lưỡi kiếm và đao
trừ tà, cung tên, vũ khí, sọ người, và dao làm phép. Ảnh hưởng của đạo Phật lên
đạo Bưn thật to lớn, để đạo này chỉ tồn tại được nếu họ tiếp nhận phương pháp
Phật giáo về phân loại và trình bày cũng như cho giáo pháp Phật giáo về phần
loại và trình bày những như cho giáo pháp mình một cái áo gồm những từ ngữ Phật
giáo. Cái còn lại của ngày hôm nay, Bưn chỉ là tiếng vang của đạo Phật hay một
nhánh của lạt ma giáo. Hình như đây cũng là suy nghĩ của người Tây Tạng chất
phác, vì như chúng tôi đã quan sát, thái độ của những bạn đồng hành, họ không
hề để ý đây không phải là một tu viện Phật giáo. Họ chỉ xem đây là một nhánh
của Phật giáo, khác với trường phái quen thuộc chỉ ở bên ngoài. Đó cũng là một
lý do ngăn cản chúng tôi lúc đầu không nghĩ đó là tu viện của Bưn, mặc dù nó
nằm trong tỉnh Schang- Schung, là cái nôi của đạo Bưn.

Trước khi đi vào chánh điện, chúng tôi quan sát
vòng tử sinh quen thuộc đặt trong tiền sảnh, dưới các bích họa. Thế nhưng thay
vì mười hai hình thông thường vẽ mười hai khâu trong “thập nhị nhân duyên”,
chúng tôi thấy mười ba hình. Hình thứ mười ba vẽ tình trạng nhập định của một
hình tượng Phật, hình này được chen vào giữ cảnh sinh và tái sinh.

Khi vào chính điện, chúng tôi nghĩ mình sẽ thấy
hình tượng thờ cúng quan trọng nhất. Nhưng trước mắt là một bức tường trống, ở
giữa là tòa của vị sư trưởng. Bức tường này không chiếm hết bề ngang của điện,
để hai bên hai lối đi, dẫn đến một hành lang trên đó là các vị Thiền Phật. Và
những ấn quyết của các tượng này không phù hợp với màu sắc truyền thống và các
linh vật tiêu biểu cũng không khớp với các tòa sen cũng như các pháp khí. Thí
dụ một hình tượng giống A-Di-Đà có thân trắng thay vì thân đỏ; tượng ngồi trên
voi thay vì tòa sen có hình con công và mang tên Shenlha Okar, “Thần Shen của
ánh sáng’. Để nhìn tượng được rõ, chúng tôi phải nghiêng người ra sau vì hành
lang quá hẹp. Chúng tôi không rõ tại sao người ta lại tách những tượng này ra
khỏi chính điện và nằm sau lưng tòa của sư trưởng. Cũng còn nhiều điều khó hiểu
khác mà chúng tôi không tìm hiểu thêm, trừ phi chúng tôi bị buộc phải ở lâu nơi
đây, điều mà chúng tôi cũng không muốn.

Thế nhưng chúng tôi khâm phục sự sạch sẽ và kiên
cố của điện, nó có tính chất vững chãi của một pháo đài và phản ảnh kế hoạch
cũng như hành động của một đầu óc thông minh, rành mạch. Động cơ nào đã thúc vị
sư trưởng xây dựng lại tu viện này, trong lúc không có ai ở và bản thân ông
cũng ở lại trong động? Ai là tín đồ hỗ trợ cho một tu viện nằm trong một lũng
chơ vơ thế này? Trên đường trở lại lều, chúng tôi nghĩ mãi về những điều này.
Vừa đến gần nơi thì chúng tôi thấy một con chó từ lều nhảy ra. Thức ăn mà chúng
tôi chuẩn bị cho cả ngày đã bị biến mất! Kể từ đó lúc nào chúng tôi cũng phải
có người trông lều. Mặc dù điều này rất hạn chế vì chúng tôi không còn đi chung
với nhau được, nhưng cũng may vẫn tìm thấy gần lều nhiều cảnh vật để vẽ và chụp
hình. Chúng tôi bắt đầu lo ngại không biết mình phải ở đây bao lâu, vì không thể phí thời gian và thực phẩm
quí báu được mà phải tới gần được mục đích chính của chuyến đi; cung điện hoang
phế Tsaparang và đền của Rintschen-Sangpo. Chúng tôi trải qua một năm tại miền
trung Tây Tạng chỉ để xin cơ quan trung ương cho đi nghiên cứu đền và tu viện
Rintschen-Sangpo của thế kỷ thứ mười, mười một (khoảng
giữa năm 950 và 1050). Thật cần thiết phải làm được càng nhiều việc càng tốt
trước mùa đông - và nhất là trước mọi biến cố chính trị có thể đe dọa kế hoạch
của chúng tôi.

Cuối cùng sự kiên nhẫn của chúng tôi được đáp, vị
tu viện trưởng đến lều thăm chúng tôi. Chúng tôi vui mừng chào hỏi ông, còn ông
bổng nhiên biến thành một con người khác. Sự dè dặt cao ngạo và nụ cười giễu
cợt khi thấy quyết định của chính quyền và nghe yêu cầu của chúng tôi đã nhường
chỗ cho một khuôn mặt thân thiện và sự chia sẻ khó khăn. Chúng tôi nhấn mạnh
lại lần nữa và phụ thuộc vào hảo tâm của ông và sẽ hết sức biết ơn những gì ông
giúp. Chúng tôi không nhắc gì nữa về chính quyền Lhasa hay quyết định nọ và
thay vào đó là lời khâm phục tu viện của ông. Những lời của chúng tôi xem ra
làm ông vui lòng và đổi ý vì bây giờ ông hứa sẽ tìm cho một ít trâu bò và người
hướng dẫn đưa chúng tôi qua đoạn đường khó trước mặt. Dựa trên bản đồ, chúng
tôi nghĩ cứ đi theo bình nguyên dọc sông Langtschen-Khambab, theo thảm có xanh
mà đi là khỏe nhất như trong những ngày trước khi tới đây. Thế nhưng vị sư
trưởng giải thích, con sông chảy qua một khe núi sâu khó đi, nên nếu theo dòng
mà đi, chúng tôi phải vượt qua vô số hẻm núi sâu mà nước ở đó chỉ với một trận dông sẽ trở thành thác ngay. Vì
thế ông khuyên chúng tôi nên đi dọc cao nguyên của dãy núi phía bắc, đó là núi
cắt lũng Gartok khỏi lũng Langtschen-Khambab. Vậy là chúng tôi phải bỏ kế hoạch
thăm vài tu viện cổ ở Schang-Schung, điều đáng tiếc vì hy vọng tìm thấy ở đó
thêm thông tin về nguồn gốc đạo Bưn. Nhưng vì sợ phải ở lâu và chần chờ thêm,
chúng tôi bỏ ý định đó và nghe lời vị sư trưởng. Cách này cũng có thêm thuận
lợi là chúng tôi sẽ bớt phải thay đổi đoàn tùy tùng.

Vị sư trưởng giữ lời và hôm sau hai người đàn ông
đến, mang theo trâu và xin làm với chúng tôi. Hai người đó xem ra đã già yếu,
cả hai đều đi cà nhắc. Họ cho hay những người trẻ đều bận gặt hái cả và bản
thân họ lúc đầu cũng ngần ngừ nhưng cuối cùng nể lời vị tu sĩ mà đến. Sau khi
xem xét hành lý để biết cần bao nhiêu trâu, cuối cùng chúng tôi đồng ý giá cả,
mặc dù cao hơn nhiều so với dự tính.

Ngày hôm sau công tác lên đường và mừng vì lại
được ra đi. Suốt ngày hôm đó chúng tôi đi ngược dốc đá, không có đường sá gì
cả. Hai cụ già đi cà nhắc chậm chạp phía trước, thỉnh thoảng bàn tán gì với
nhau; hình như họ không biết rõ phương hướng gì lắm. Đến tối, chúng tôi tới một
vùng cao nguyên mênh mông chập chùng, đây đó là những tảng đá rất lớn, hầu như
những người khổng lồ đã dùng chúng để ném chọi lẫn nhau. Nơi đây cảnh vật không
có chỗ nào đặc biệt để có thể ghi nhận hay định hướng trong một vùng rộng mênh
mông đơn điệu và sau đó chúng tôi mới biết là những người hướng dẫn đường cũng
không biết tí gì. Tất cả chúng tôi đều mệt lã người vì leo quá cao và tình
trạng này còn khó thêm vì hiện đang ở độ cao năm nghìn mét và sẽ
không cắm lều trại gì được nếu không kiếm ra chỗ có nước. Nhìn quanh xem ra
không có dấu hiệu của sông suối cả.

Sau đó một du sĩ và một cô bé ăn xin chừng mười hai tuổi nhập bọn cùng chúng
tôi. Cô tự nhận là một nữ tu nhưng hình như chỉ đến để có thức ăn và lửa trại
ấm áp cùng chúng tôi. Trời đã chuyển lạnh tê tái nhưng không có góc đá kín gió
lẫn chút củi khô nào. Cổ họng chúng tôi khô kiệt sau khi leo núi trong mặt trời
chói chang mà chỉ khi buổi sáng mới giảm sức nóng.

Về hướng đông chúng tôi còn cảm thấy lần cuối
đỉnh tuyết trắng xóa của Ngân Sơn, phía nam lấp lánh các đỉnh tuyết của
Himalaya. Ở giữa là đỉnh Kang-men, như một Ngân Sơn thứ hai, ngọn núi thiêng
của Phật Menla, vị dược sư và người cứu độ. Thật là hùng vĩ được thấy cái đẹp làm ta choáng ngợp, nó
cho tôi cảm giác được bơi lội trên biển cả chập chùng những đá.

Chúng tôi quá mệt mỏi để thưởng ngoạn cảnh quan
này và cuối cùng khi kiếm ra một rãnh nước dưới một đống đá ngổn ngang thì hầu như hết sức mà dựng lều, nấu
trà và ăn một ít lương khô mà tối hôm qua chuẩn bị sẵn. Li bị sốt không ăn được
gì nhiều và đến khuya chúng tôi run lên vì lạnh, dù đã mặc bao nhiêu lớp áo và
đắp đủ thứ mền. Nước mà chúng tôi lấy sẵn trong một cái bát cho ngày hôm sau
bây giờ đã đóng băng cứng và bình nước chứa nước thiêng của hồ Manasarovar đã
bị vỡ! Đây là mùi vị đầu tiên của mùa đông đang đợi chúng tôi, nếu chúng tôi
không chịu gấp rút.

Các người tùy tùng, vị tu sĩ và cô bé ăn xin xem
ra không khổ sở lắm vì cái lạnh, mặc dù họ không có lều và mền ấm. Chúng tôi
chỉ biết ngạc nhiên khâm phục. Khi mặt trời lên, vị tu sĩ cúng nước và đèn buổi
sáng; song song, ông đọc lời nguyện cầu và chúc lành cho mọi sinh vật. Khi
tiếng chuông của ông vang lên trong gió lạnh buổi sớm và mặt trời huy hoàng
vượt qua đỉnh núi thì chúng tôi cũng quên cảnh khổ tối hôm trước và lòng tràn
đầy niềm vui của một ngày mới.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3