Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 5
THUNG LŨNG DAWA-DSONG
Vài ngày sau khi từ vùng cao nguyên vắng người
xuống được cổng đá của Kodschomor, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm với ý nghĩ, được
bỏ vùng hoang vu cô quạnh để đến bình nguyên ấm áp. Nhìn xuống vùng lũng thấp
uốn lượn nhẹ nhàng mà phía nam giáp với dãy núi tuyết Himalaya, công tác nghĩ
bây giờ sẽ đi dọc được theo sông Langtschen mà không trở ngại gì. Tưởng đã đến
lũng, nào ngờ chúng tôi thấy mình đứng bên bờ một cao nguyên và nhìn thấy phía
dưới chằng chịt những suối, chiều cao hẳn cũng cả ngàn mét. Hầu như chúng tôi
đến chỗ chân trời cuối đất và thấy không có cách nào hơn là phải quay trở lại;
vì làm sao chúng tôi có thể xuống núi với trâu và ngựa nặng nề, dốc núi gần như
thẳng đứng và sâu tới mức không thấy đáy? Và làm sao chúng tôi vượt qua khỏi mê
hồn trận này, chập chùng chân trời rồi lại chân trời, đi hàng ngày thậm chí
hàng tuần không hết?
Chúng tôi vừa tự nhủ như thế thì những con trâu
đầu tiên cùng người hướng đạo đã biến mất sau một hẻm núi, như bị trái đất nuốt
chửng. Đó là một con đường hẹp mà chỉ người lữ hành có kinh nghiệm mới biết, nó
dẫn qua các khe đá để đi vào một thế giới riêng. Thế nhưng cả con đường khó
biết này cũng bổng biến sau đống đá vụn hay triền cát mà trên triền đó nguyên
đoàn lữ hành kể cả trâu ngựa trượt dài xuống dưới với hy vọng sẽ dừng lại kịp
thời trước khi một vách đá thẳng đứng xuất hiện. Khổ thay cho những ai phải
vượt qua vùng này mà không có người biết đường hướng dẫn! Ngay cả khi may mắn xuống tới được những dòng suối mà
không mất mạng thì mất hành lý hay bị gãy tay gãy chân, thì việc đó ra khỏi
lũng sâu đó còn khó nhiều hơn.
Tôi còn nhớ rõ mình tính toán thế nào để ra khỏi
lại hẻm núi ngày hôm sau khi lần đầu cắm lều trong một lũng sâu. Sau khi nghiên
cứu địa hình, chúng tôi thấy chỉ có cách lội dọc theo một con suối cạn nhưng
chảy mạnh, cho đến chỗ có phiến núi hay vách đá bên hông. Thế nhưng ngày hôm
sau chúng tôi leo ngược lên vách đá - kể cả trâu và ngựa - chính là đoạn gần
như dựng ngược mà chúng tôi ngay từ đầu đã loại bỏ khả năng này! Tới ngày hôm
nay chúng tôi cũng không hiểu sao mình làm được kỳ công đó. Có lẽ chúng tôi đã
tìm được chỗ vịn thế nào đó rồi kéo những con vật lên để cuối cùng tới được một
đường hẹp nhô ra từ một vách đá thẳng đứng. Có nhiều cát mà vừa đặt chân lên đã
bị trượt ngay.
May thay chúng tôi sớm đến nền đất vững chắc. Sau
vài tiếng đến được sông Langtschen-Khambab, chúng tôi đối diện với một chiếc
cầu treo hẹp. Nó gồm có hai sợi dây cáp bằng thép treo song song, chúng mang
những đoạn gỗ được cột một cách sơ sài. Không có gì để vịn, kể cả tay cầm hay
dây và khi bước lên thì không những cầu uốn mình mà còn đu đưa qua lại. Với
tình cảnh này, chúng tôi không làm được gì khác hơn là tháo hành lý khỏi lưng
trâu và đem từng món một qua chiếc cầu rung rinh, cách khoảng ba bốn chục mét
trên dòng suối reo chảy và lạnh như băng. Sau khi đem hết hành lý qua bên kia
rồi, chúng tôi dắt trâu qua cầu, nhưng chúng cũng rất khôn, không chịu bước lên
chiếc cầu đong đưa. Chúng tôi hồi hộp không biết làm sao thoát khỏi tình cảnh
này. Những người giúp chúng tôi rất khéo léo. Họ đem được trâu đi xuống suối,
làm đủ cách cho chúng lội qua suối, kêu gào cũng có, chọi đá cũng có. Giữa dòng
nước chảy khá mạnh, chúng tôi sợ chúng bị cuốn theo; trong khi phía dưới suối
thì bờ rất cao, không làm sao cho chúng lên bờ lại. Nhưng nhờ chọi đá mà trâu
nghe lời, an toàn qua được bờ bên kia. Cuối cùng tất cả đều qua được cầu, nhưng
“hồi hộp gần như tắt thở”, như thành ngữ Anh nói đúng (to have may heart in may
mouth). Bây giờ chúng tôi biết rõ hơn bao giờ hết, tại sao mỗi đầu cầu Tây Tạng
đều mang vô số cờ cầu nguyện! Người Tây Tạng tin tưởng sức mạnh cầu nguyện hơn
sức mang của chiếc cầu và đối với họ thì tốt hơn là tin nơi sức mạnh thiêng
liêng và sẵn sàng chịu những điều xấu nhất.
Mặc mọi khó khăn và hiểm nguy, chúng tôi được đền
bù bởi cảnh đẹp hoành tráng của vùng lũng hẹp dưới chân núi đá, chúng càng hiển
lộ ra nếu ta càng đi sâu trong đó. Ở đây núi non không còn chỉ là cảnh vật mà là kiến trúc với nghĩa cao nhất.
Nó đã trở thành những đền đài khiến ta kính sợ, mà từ “đẹp” không đủ để diễn
tả, vì công trình kiến trúc này quá đồ sộ và những hình tượng kỷ hà trừu tượng
của chúng cứ lặp lại hàng triệu lần, chúng biến dần thành một nhịp điệu vĩ đại,
thành một bản trường ca bằng đá, vô thủy vô chung.
Mới đầu người ta tưởng rằng đây hẳn là tác phẩm
của năng lực mù quáng của thiên nhiên, đối với người ngắm có vẻ như thế; chứ không phải là nhạc phẩm của một nghệ
nhân siêu việt, trong một khuôn khổ xa sức cảm nhận của đầu óc con người, làm
ta choáng ngợp. Thế nhưng điều đáng kinh ngạc không phải là cái muôn hình mà sự
chính xác và tính qui luật của kiến trúc, nó được lặp lại trong một số hình
tượng và nguyên lý tạo hình, cho thấy những sự nhất thể nằm trong một nhịp điệu
càng lúc càng tăng, để đến cuối cùng, tất cả cảnh vật ghê gớm đó hầu như phát
ra tiếng bằng một nhịp vận động duy nhất.
Cả một dãy núi biến thành một loạt những tu viện
vĩ đại. Vài trong số đó có dạng như những ngôi đền Ấn Độ giáo theo mô hình
Khajurao, Bhuvaneshvar hay Konarak; số khác theo kiểu Nam Ấn Gopuram, một số
khác lại có hình giáo đường kiểu gô-tích hay như những lâu đài huyền thoại với
vô số đỉnh, tháp, trường thành.
Nhờ không khí loãng trên độ cao này mà mọi chi
tiết cảnh vật đều rõ nét, có thể nhìn được từ xa, đồng thời màu sắc có một sức
sáng và tinh sạch mà trong các vùng thấp không bao giờ có. Ngay cả bóng cảnh
vật cũng hiện ra với một màu trong suốt và bầu trời dường như luôn luôn không
mây của Tây Tạng tạo nên một nền xanh thẫm, trên đó màu đỏ vàng hay đồng của đá
nổi lên rõ nét và lúc mặt trời lặn, chúng cho một vùng ngũ sắc.
Vùng đất đầy hẻm núi, lũng sâu kỳ diệu trải rộng
hàng trăm cây số vuông này mà không ai biết đến; quả là một điều đáng kinh
ngạc. Đồng thời lũng sâu nằm dưới đá núi này ngoài vẻ đẹp thiên nhiên, nó còn
cho thấy báu vật của một quá khứ to lớn, nó mở cho khách thấy những bí ẩn của
một thế giới huyền hoặc, trong đó ước mơ đã thành sự thực nhờ sức mạnh kỳ diệu
của tâm linh, chúng đã ngự trị phần đất này suốt cả ngàn năm và hình như vẫn
còn đan quyện với nó một cách tinh tế. Đây là những lâu đài cổ đang giữ lại tài
sản của con người để nói lên ước vọng được giải thoát, những pháo đài núi của
kỵ mã thời trung cổ, những thị trấn của người chuyên ở hang động cũng như chốn
thiêng liêng trong hang sâu của những bàn thờ bí mật với tất cả những báu vật
nghệ thuật và kinh điển. Thế nhưng chúng không phải thuộc về quá khứ. Những
thất của các vị sống ẩn cư sùng tín, chúng như những tổ chim én treo trên vách
đá và cũng như tu viện và đền đài nằm kiêu sa trên các đỉnh núi hay ẩn trong
các lũng kín đáo, chúng là nơi giữ cho ngọn lửa của lòng tin và truyền thống
được sống mãi.
Mặt khác đây là một vùng đất chết, một vùng đất
đang dần dần biến thành cát bụi, như những vùng Trung Á, cách đây ngàn năm là
trung tâm văn hóa phồn vinh nay đã thành sa mạc, như sa mạc Gobi hay
Takla-mankan. Miền tây Tây Tạng và đặc biệt là vùng Ngari Kharsum, cách đây
chưa đầy một ngàn năm là nơi nuôi sống nhiều dân tộc và sản sinh một nền văn
minh đáng kể, ngày hôm nay hầu như không còn người ở, chi còn vài ốc đảo, nơi
mà con người hết sức cố gắng tưới tiêu mới trồng được chút lúa mì, lúa mạch.
Sự khô cằn của miền tây Tây Tạng có lẽ có cùng
chung nguồn gốc với các sa mạc Trung Á. Các nhà địa chất cho biết, dãy Himalaya
ngày càng trồi cao cho nên ngày càng ít mây đen qua được bên kia núi, núi đã
ngăn chúng lại. Phía Tây Tạng của Himalaya ngày nay còn nhiều tảng băng sơn lớn
nhưng theo các nhà địa chất thì chúng là băng sót lại của thời kỳ xưa, vì lượng
tuyết rơi cả năm ngày nay không đủ để giải thích sự hiện diện của những băng
sơn đó.
Thế nên có nhiều vùng lớn của Tây Tạng sống nhờ
dự trữ băng của thời tiền sử, và khi những dự trữ này hết đi thì đất sẽ trở
thành sa mạc; vì ngay bây giờ mà mưa hay tuyết cũng không đủ nước để trồng
trọt. Người ta có thể ngạc nhiên tại sao đất Tây Tạng lại chóng bị xói mòn
trong lúc thật ra có ít mưa hay đổ tuyết. Lý do là sự khác biệt nhiệt độ quá
lớn giữa ngày và đêm; chúng quan trọng tới mức mà đá cũng phải vỡ và những tảng
đá khổng lồ cũng có thể biến thành cát. Với điều kiện này thì chỉ cần một vài
trận mưa và nước từ băng sơn chảy ra, thêm vài trận bão thỉnh thoảng xảy ra là
đủ để xói mòn đất đai.
Muốn biết qui trình khô cằn và sự hình thành sa
mạc diễn ra nhanh như thế nào, ta nhớ chỉ cách đây khoảng sáu trăm – bảy trăm năm còn nhiều loại cây có
lá mọc trong vùng, ngày nay chúng không còn như tại Bắc cực. Hay khi ta nhớ đến
các phế điện, các thị trấn chết, cách đây năm trăm năm chúng vẫn còn phồn vinh đầy sức sống, xung quanh là đất đai mầu mỡ,
nhờ đó mà dân chúng sống dung tục. Những thành thị này đều là xứ sở của vua chúa và học giả, quan quân và
thương nhân, nghệ nhân có tài là thợ thủ công chăm chỉ, họ đem tài nghệ và khả
năng của mình ra để phụng sự cho đền đài tu viện, thư quán cũng như các tác
phẩm tôn giáo. Trong lịch sử Tây Tạng ta được nghe tới những tranh ảnh thờ
phụng hay pháp khí bằng vàng bạc, và chúng ta không lý do để cho rằng đó chỉ là
sự phóng đại, nếu chỉ cần nhớ lượng vàng cần để thếp các mái điện, hình tượng,
bích họa, các phẩm vật trang trí và các pháp khí cúng dường. Cả những bức tượng
thật lớn làm bằng kim loại hay đất nén cũng được phủ một lớp vàng chắc chắn.
Như trong thời kỳ Inka, trong đó vàng được xem là của riêng của thần Mặt trời
thì tại Tây Tạng người ta cũng xem vàng chỉ để trang hoàng cho các vị giác ngộ và giáo pháp của các vị đó. Quả thật là
giáo pháp này thường được viết bằng vàng hay bạc và được trang trí hay minh họa
với hình tượng tí hon làm bằng vàng.
Khó có thể tưởng tượng lòng sùng tín của người
dân Tây Tạng vào thời kỳ đó, cái đã làm cho con người biến một vùng sông suối
khó khăn và núi rừng hoang vu để trở thành một thiên đường hòa hợp, của biểu
tượng văn minh, trong đó tâm linh được coi trọng hơn uy lực thế gian và sự giàu
có, và có một nửa dân chúng dành thời giờ để thiền quán, để thực hiện những tác
phẩm nghệ thuật và để sống cuộc sống tôn giáo, mà không phải chịu hy sinh gì
lớn hay xao nhãng trách nhiệm xã hội.
Trong tác phẩm nổi tiếng The Lost horizon
(Chân trời đã mất), khi James Hilton mô tả “thung lũng mặt trăng xanh”, ông
không quá xa so với sự thực mà bản thân ông hay độc giả có thể nghĩ. Có một
thời kỳ mà trong những vùng hẻo lánh của tây Tây Tạng có những lũng bí ẩn, phải
đi qua những khe đá chật hẹp mà chỉ có dân trong vùng mới biết. Trong những
vùng sâu đó, cạnh những con suối, là vườn tược đầy hoa, bao quanh bởi cây xanh,
ruộng lúa mì vàng rực và thảo nguyên nhờ những dòng nước trong như pha lê đổ từ núi xuống. Trên những đỉnh núi đá gần
đó là đền đài chùa tháp, trên sườn non là hàng ngàn hang động sạch sẽ, trong đó
có người sống, không bị cái lạnh cái nóng xâm chiếm, họ sống một cuộc đời đơn
giản nhưng đầy đủ, không chiếm đất đai mầu mỡ của vùng vì việc xây dựng nhà
cửa. Họ sống trong ánh nắng vĩnh cửu của mặt trời, không gì phiền toái cho họ.
Mưa tuyết lạnh giá của cao nguyên hay đời sống chạy theo quyền lực của một thế
gian không biết nghỉ.
Trên đường về Tsaparang, chúng tôi may mắn bất
ngờ được “lạc” vào trong một lũng như thế; nó có tên thích hợp là “lũng của lâu
đài mặt trăng” (Dawa-Dsong). Đoàn người được thuê vừa đưa chúng tôi đến đây dã
vội quay về, chẳng cần biết có tìm ra người đi tiếp hay không, để chúng tôi lại
một mình, xung quanh không bóng người. Họ cũng nhất định không chịu ngủ nán
thêm một đêm. Họ tháo hành lý của chúng tôi để bên cạnh một con sông cạn, chảy
qua lũng rộng, quanh là chập chùng những núi mà vòm và tháp giống như một pháo
đài khổng lồ của một thế giới nào xa lạ lắm.
Khi chúng tôi lo cắm lều, chất lương khô vào lều
và chuẩn bị ăn tối thì mặt trời đã lặn và thế giới rút lại chỉ còn bốn phía của
chiếc lều. Bóng tối bao xung quanh chúng tôi như một tấm màn bảo vệ. Ngày hôm
sau khi ngủ dậy và nhìn xung quanh thì ý nghĩ phải còn ở đây lâu không làm chúng
tôi hãi sợ. Ngược lại chúng tôi mừng vui thấy các chuyện tưởng là phiền, cuối
cùng lại cho mình cơ hội được nghiên cứu và vẽ lại một vùng đất không thể tưởng
tượng được, hầu như là tranh minh họa của tác phẩm Reise nach dem Mond
(Du hành mặt trăng) của Jules Verne chứ quang cảnh không thuộc trái
đất này.
Những người khác chắc hẳn sẽ cảm thấy bất an vì
sự cô đơn và kỳ bí của vùng này. Còn với chúng tôi nó là một thiên đường, một
thế giới kỳ diệu với những tảng đá hình thù lạ lùng; chúng xếp nhau từng lớp
biến thành tháp cao ngất và chĩa hàng trăm mét cao lên trời xanh, như một bức
tường bảo vệ huyền bí cho ốc đảo xanh tươi này, nơi đây được nước nguồn và suối
núi tưới tiêu.
Một số lớn những tháp thiên nhiên vừa nói được
người sống cách đây hàng trăm năm biến thành thạch thất - đó là những nhà chọc
trời đích thực. Họ đã khéo léo khoét rỗng các tháp đó, biến nó thành một hệ thống những phòng con, nối với nhau
bằng cầu thang và có nhiều cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Nhóm các tảng nhỏ được làm
như tổ ong và cứ mỗi tổ như thế là một chỗ ở. Một loạt những nhà hình khối
đường như di tích của làng tu, mà chính điện được xây trên đỉnh một núi đá.
Đỉnh núi được trang hoàng bằng đền đài, tháp thờ,
tu viện và phế tích của lâu đài cũ và cho một cái nhìn tuyệt vời xuống lũng, nơi
được che chắn bởi những ngọn tháp đá nằm kế bên nhau như những cột của một cây
đàn organ trong nhà thờ và bởi hàng trăm thạch thất với những cửa sổ của chúng.
Thế nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là chính
điện, không những không hư hại, mà mái điện thếp vàng, trong cảnh hoang vu
những đá và phế tích này nó lại chiếu sáng như một viên ngọc bỏ quên - dấu tích
và biểu hiện của thời huy hoàng cũ của một niềm tin sống động đã nở hoa nơi
đây, khi lũng còn chứa hàng ngàn người và được các nhà vua anh minh cai trị.
Phế tích của các bích họa cho thấy rằng đền này đã xây khoảng cuối thế kỷ thứ
10, tức là khoảng một ngàn năm trước.
Chỉ trừ vài người chăn thú, họ cho dê cừu ăn cỏ
trên thảo nguyên của lũng, có lẽ chúng tôi là những người duy nhất đi qua thành
phố thạch thất bị bỏ quên này.
Một sự yên tĩnh đến nao lòng! Một sự cô tịch xâm
chiếm tâm can! Một sự yên tĩnh đầy tiếng nói của quá khứ; một sự cô tịch vẫn
đầy sự hiện diện của vô số thế hệ đã sống, đã dựng xây thành thị và đã ở tại
đây. Nhiều thạch thất này đã là trú xứ và thiền phòng của tu sĩ và ẩn sĩ, nên
cả chốn này chứa đầy những tâm hồn hiến dâng và đời sống quán tưởng. Những tảng
đá hầu như quên mình vươn vút lên trời xanh.
Như một miếng sắt khi có từ tính thì giữ sức hút
trong một thời gian; tương tự thé, nơi đây có một không khí của sức mạnh tâm
linh và sự tươi sáng còn giữ lại, nó làm ta quên lo ngại và sợ hãi, lòng tràn
đầy an bình và sáng sủa lạ lùng.
*
* *
Chúng tôi cắm lều ở đây đã một tuần, nhưng thời
gian dường như dừng lại trong lũng, đến nỗi chúng tôi không còn nhớ tới nữa.
Người ta kể tôi nghe Dawa-Dsong là chỗ ở của một vị tỉnh trưởng. Thế như nhà
(dsong) của ông không gì khác hơn là một căn nhà nhỏ, cây cối bao quanh, tại
chân của cổ thành phế tích gần bờ tường thành, chỗ cắt lũng Dawa-Dsong với lũng
chính. Chúng tôi thất vọng khi nghe vị tỉnh trưởng đi thị sát và không ai biết
bao giờ ông sẽ về, kể cả vợ ông cũng không biết gì; bà ở nhà một mình với hai
người hầu cận. Khi nghe tôi gặp khó khăn trong vấn đề di chuyển, bà hứa với tôi
sẽ giúp. Nhưng hiện nay trâu đang ăn cỏ trên cao nguyên và không có ai bắt nhốt
chúng lại cả, vì chồng bà đem theo tất cả nhân viên. Theo tập tục của Tây Tạng
thì tỉnh trưởng đi đâu cũng có cận vệ vũ trang đi cùng, không phải chỉ vì vấn
đề an ninh thôi, mà vì uy tín cá nhân. Thế nên chúng tôi đành phải đợi - điều
mà chúng tôi không muốn làm.
Chiều nọ trên đường vẽ về, hôm đó Li phải canh
lều, tôi gặp một vị lạt ma già từ một trong những tòa nhà hư sập gần đền thờ có
mái vàng đến. Ông chào hỏi thân thiện và xem ra cũng ngạc nhiên không kém tôi.
Sau khi thăm hỏi xã giao, chúng tôi đi vòng quanh
đền và quay bánh xe cầu nguyện để trên tường. Trong lỗ hổng sau bánh xe có bàn
tay nào đã nhét vài tờ kinh vào đó, có lẽ chúng rơi từ trong đền hay tháp thờ
nào, vì tại Tây Tạng không ai xé bỏ kinh sách, dù mẩu giấy nhỏ nhất, cũng không
để cho chúng bị người hay thú dẫm nát.
“Ông là lạt ma”, bất ngờ ông già nói với tôi, hầu
như ông tiếp tục cuộc đối thoại nội tâm, “nhưng ông từ xứ khác đến. Vậy ông đọc
tờ kinh được không?”
“Tất nhiên là được.”
“Thế thì ông đọc cái gì đây”, và ông rút ra một
tờ nằm trong hốc sau bánh xe.
Tôi đọc: “Con nguyện làm lợi lạc cho tất cả chúng
sinh, vô lượng không gian; con nguyện đi trên con đường từ bi, nguyện cầu giác
ngộ hoàn toàn”.
Khuôn mặt của ông già sáng lên, ông nhìn sâu vào
mắt tôi và nắm lấy hai tay như tìm lại người anh em lâu ngày lưu lạc nói:
“Chúng ta cùng đi trên một con đường”.
Không cần nói thêm gì nữa - trong lúc đá hầu như
cháy sáng lên trong ánh chiều tà, tôi vội trở về lều nằm sâu trong lũng.
Khi gần đến nơi thì Li cho hay, trong lúc tôi
vắng mặt có một người đến báo, rằng trâu mà chúng tôi chờ mãi, nay đã được bắt
lại và một hai ngày nữa sẽ đến với chúng tôi.
Thật là một tin vui. Thế nhưng lòng buồn nghĩ,
chúng tôi sẽ không bao giờ thấy lại mái vàng của ngôi đền thiêng liêng này,
trong đó cả ngàn năm qua bao nhiêu tu sĩ đã đi theo đường giác ngộ và trong đó
tôi tìm được một người bạn - người bạn vô danh và là kẻ đồng hành - mà mắt nhìn
long lanh của ông còn đọng mãi trong tôi cùng với niềm an lạc và hạnh phúc sâu
xa mà chúng tôi đã tìm thấy trong thung lũng kỳ diệu này.