Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 6

ĐẾN TSAPARANG

Sau thời gian ở tại “lũng lâu đài mặt trăng”
và những ấn tượng to lớn của vùng khe sâu lũng hẹp dưới chân núi đá trên đường tới Tholing, chúng tôi ngại rằng Tsaparang
sẽ gây thất vọng hay ít nhất nó không tranh được với những kỳ diệu thiên nhiên
mà chúng tôi đã gặp. Ngày cuối, khi từ một khe leo lên để tránh một mỏm núi,
đột nhiên chúng tôi thấy một thành phố vươn lên, như đẽo từ đá, gồm toàn những
đền dài và cung điện, thành phố của các nhà vua xưa, đó là đích của chúng tôi:
Tsaparang. Sự bất ngờ của cảnh quan này làm chúng tôi nín thở và không dám tin
những gì mình thấy.

Như quyện trong ánh chiều thành phố nằm trên bầu
trời tối, vây quanh là một chiếc cầu vòng như ánh hào quang. Chúng tôi sợ tất
cả sẽ sớm biến mất như một ảo giác trên sa mạc sau khi chúng đã hiện ra - thế
nhưng nó là sự thực không lay chuyển, như đá núi mà trên đó thành phố vươn cao.
Ngay cả cầu vồng - một hiện tượng cực hiếm trong vùng đất hầu như không mưa này
- cũng nằm lâu trong bầu trời và bao bọc thành phố như hào quang của những báu
vật bí ẩn của những tượng vàng và sắc màu rực rỡ, mà những linh ảnh và các nền
minh triết của quá khứ vàng son đã tạo thành tác phẩm nghệ thuật.

Sau hai năm dài gian khổ của chuyến hành hương và
sự bất định và sau hơn mười năm chuẩn bị, được thấy đích đến của mình nằm trong
một hào quang rực rỡ, lòng chúng tôi không những tràn đầy xúc động mà còn thấy
rằng đó là một điều kỳ diệu, nó xảy ra không hề do tình cờ. Đối với chúng tôi,
đó là dấu hiệu cho thấy trước những biến cố và khám phá có ý nghĩa trọng đại -
sự cảm nhận về trách nhiệm của mình mà chúng tôi phải làm cho đến cuối đời. Đó
là sự tuyên bố rằng nổ lực của mình sẽ đưa đến thành công cuối cùng, đồng thời
nó cũng là sự xác minh lòng tin tưởng của mình về sự hiện diện của những năng
lực là đúng, đó là những sức mạnh dẫn chúng tôi đến đây và cũng vượt qua bao
nhiêu hiểm nghèo.

*

* *

Chúng tôi đến thành phố bị quên lãng này lúc trời
vừa tối và tìm được chỗ nghỉ trong một lều đá. Đó là phần trước của một hang
động, từng là chỗ ở của những người đặc biệt trong kinh đô này của thời đại
Guge. Ngày nay cư ngụ ở đây là một người chăn cừu có vợ con. Ông cũng là người
bảo vệ cho ba ngôi đền thoát được sự tàn phá của chiến tranh và thời gian. Tên
của ông là Wangdu. Ông rất nghèo, đúng như tục ngữ thường nói “như một con
chuột trong nhà thờ” và mừng vui kiếm được ít tiền từ việc đem lại cho chúng
tôi nước, gạo và sữa. Trong lều đá nhỏ xíu này, chúng tôi cố gắng sắp xếp tươm
tất, mặc dù bên trong lởm chởm và tối đen, nó là hang động thiên nhiên hơn là
chỗ ở cho người.

Trong đêm đầu tiên dáng nhớ đó - đó là đêm 2.10.1948 - tôi viết trong nhật ký: “Mơ ước
của đời tôi từ nhiều năm nay là viếng Tsaparang, được đưa ra ánh sáng những báu
vật đã hoang tàn của nghệ thuật tôn giáo và truyền thống cổ xưa. Mười năm nay
tôi hướng về mục đích này, mặc cho nhiều trở ngại và lời can ngăn của những
người nghĩ rằng tôi đi tìm ngôi lầu xây trong không trung. Nay giấc mơ đã thành
sự thực và tôi bắt đầu hiểu một giấc mơ khác mà tôi đã có từ ba mươi năm nay.
Trong giấc mơ đó tôi thấy một ngọn tháp gỗ nằm trên đỉnh núi. Đó là một ngọn
tháp cũ, gió mưa đã làm tróc sơn. Tôi buồn rầu khi thấy cảnh này vì nhớ rằng
trong quá khứ, lúc còn nhỏ tôi đã từng đứng trong tháp ngắm cảnh vật xung
quanh. Bỗng nhiên tôi thấy Phật hiện đến với tôi, Ngài cầm trên tay thùng đựng
sơn và cọ. Tôi chưa kịp nói lên sự ngạc nhiên của mình thì Ngài đưa thùng và cọ
cho tôi rồi nói: “Con hãy tiếp tục công việc này của ta và hãy nhận lấy”. Lòng
tôi tràn một cảm giác vui sướng và đột nhiên hiểu rằng, tháp này là tháp của
tri kiến, đó là biểu hiện của pháp, mà Phật đã xây nên cho những ai muốn vươn
ra khỏi thế giới chật hẹp của mình. Vào thời đó, điều mà tôi chưa hiểu là, mình
là người được chỉ định phụng sự pháp bằng sơn và cọ; để thể hiện pháp qua một
số dạng hình đẹp nhất của nó trong các tác phẩm nghệ thuật cao quí, đưa nó ra
khỏi sự quên lãng”.

Và hồi đó tôi cũng không biết là mình sẽ có một
người giúp sức có tài và hăng say, đó là Li Gotami, cũng là người phụng sự các
bậc giác ngộ như tôi và rất yêu thích các tác phẩm lớn của nghệ thuật văn hóa
Phật giáo, mà biểu hiện cao quí và trọn vẹn nhất của chúng nằm tại Ajanta và
Tsaparang. Chỉ những người mà đời sống tâm linh quan trọng hơn tiện nghi vật
chất và niềm ước ao học được pháp Phật lớn hơn tham vọng của cải và quyền lực
thế gian mới hoàn thành được những tác phẩm đó, qua đó mà cả tính chất hoang dã
của một vùng đá sỏi trở thành sự phát biểu của cái nhìn nội quán và vật chất trần
trụi trở thành sự thể hiện của thực tại siêu việt.

Chúng tôi choáng ngợp trước uy lực của thực tại
này, khi ngày hôm sau và chính điện của hai ngôi đền lớn, đền “trắng” và “đỏ”,
màu của vách tường bên ngoài, chúng đã trường tồn, thoát mọi tàn phá. Những bức
tượng vàng to hơn người thật phát sáng giữa màu sắc ấm áp của các bích họa trên
tường, và sinh động hơn tất cả những tượng chúng tôi từng thấy. Đúng, các bức
bích họa đó là hiện thân cho cái thần của thành thị bị lãng quên này. Đó là
những cái độc nhất mà thời gian không can thiệp được. Thế nhưng chúng tôi cũng
biết rằng cả những gì còn sót lại cuối cùng này của thời vàng son cũng sẽ bị
tàn lụi, khi thấy những vết nứt trên vách và trần của hai điện. Một số bích họa
bị nước mưa hay tuyết tan, thấm qua mái đã dột, làm hư nát, và vài bức tượng
của đền thờ trắng vốn làm bằng đất thếp vàng, nay đã hư hại.

Những bức bích họa hẳn là toàn thiện nhất trong
số những gì chúng tôi từng thấy trong hay ngoài Tây Tạng. Chúng che kín các
vách tường, chỉ trừ đoạn dưới màu đỏ của vách (khoảng ba phần tư mét) lên đến
trần. Chúng được thếp vàng không tiếc với sự chi li kỹ lưỡng nhất, ngay cả tại
những góc tối tăm hay nằm hẳn trên cao không ai thấy tới, thậm chí mặt sau của
những bức tượng. Vài hình trong bích họa có kích thước khổng lồ. Giữa những
hình đó là những hình vừa và nhỏ, có nhiều nơi là những hình nhỏ xíu, có cái
lớn không quá móng tay. Thế nhưng những hình tí hon này vẫn đầy đủ chi tiết như
lông mày, tóc tai, móng tay móng chân, trang sức, mặc dù phải cần kính lúp mới
thấy chúng. Chúng tôi sớm biết rằng các bức bích họa này là sự thể hiện lòng
phụng sự tôn giáo, không cần biết chúng có được trầm trồ nhìn đến hay không. Đó
là lời cầu nguyện và hành động thiền định bằng màu và dạng, mỗi một nét vẽ là
một hành động của tập trung cao độ. Khi vẽ lại từng nét các bức bích họa, chúng
tôi cảm nhận sự kỳ diệu của những đường nét, nơi đó còn nóng hổi nhịp tim và
lòng quên mình sinh động của nghệ nhân, họ hiến mình cho tác phẩm, không cần
biết tên mình ngày sau có còn ai nhắc tới. Họ tìm nơi sáng tạo tác phẩm niềm
cảm khái của mình. Bản thân tác phẩm của họ đã là sự thờ phụng. việc vẽ lại
những nét tinh tế này cũng cần sự chú tâm cao độ. Đó là một cảm giác kỳ lạ,
được sống lại cảm nhận và xúc động của những người sống gần một ngàn năm trước.
Hầu như chúng tôi tiến lại thân thể và nhân cách của họ, tham gia vào suy tư và
cảm xúc của họ và bị nội tâm của họ chiếm giữ. Điều đó cho thấy, xúc cảm không
những được biểu hiện bằng động tác ra ngoài - thí dụ như nét vẽ, vũ điệu, cử chỉ,
ấn quyết - mà cả sự lặp lại những động tác đó cũng sinh ra chứng thực và cảm
xúc như nguyên thủy.

Với cách này, chúng tôi bị hút vào công việc, hầu
như chúng tôi đã đánh mất tính chất riêng của con người mình và nhận nhân cách
của người khác làm của mình, những người sống cách đây hàng trăm năm đã làm
công việc tương tự. Biết đâu được chúng tôi chính là những nghệ nhân trong một
đời sống trước và đó là lý do đã dưa chúng tôi về lại chốn sáng tạo cũ.

Trong ba tháng ở Tsapang, cứ mỗi ngày trước khi
bắt đầu công việc, chúng tôi lại tụng kinh quy y và tán thán trước tượng vàng
và cúng hương đèn cho vị giác ngộ, phẩm vật tượng trưng cho ánh sáng và đời
sống. Và mỗi ngày sự hiện diện của các vị càng rõ rệt và thúc bách hơn, để lòng
chúng tôi tràn ngập sự cảm hứng mà quên đi sự đói lạnh và mọi khắc nghiệt của
tình trạng hiện tại, sống như trong sự xuất thần, từ lúc mặt trời mọc đến khi
lặn, làm việc hầu như không nghỉ với một lượng thực phẩm tối thiểu.

Thế nhưng càng ngày trời càng lạnh, đặc biệt
trong đền, chỗ mặt trời không bao giờ chiếu vào. Khi rót bảy chén nước để cúng
buổi sáng thì chưa rót chén cuối, chén đầu đã đông, dù chỉ cần chưa đầy năm
giây để rót chén nước. Vách tường của điện lạnh tới mức mà đụng lâu đến nó sẽ
bị gây đau đớn và việc vẽ lại các chi tiết kỹ lưỡng là một sự cực hình. Li phải
ủ chai mực tàu trong người để nó khỏi đông và chốc chốc Li phải hà hơi vào cọ
nếu không, chỉ sau vài nét vẽ, mực đã bắt đầu cứng. Điều này thật khổ sở trong
những ngày cuối của chúng tôi tại Tsaparang, lúc đó mỗi phút mỗi quí, và tôi
nhớ là Li phải khóc vì chiến đấu chống cái lạnh.

Tôi làm việc với các tượng lớn của các vị Thiền
Phật và Bồ-tát nên phải dùng bút chì, phấn vẽ trên một thứ giấy trong và nhám.
Phần lớn hình ảnh của tôi nằm trên cao nên tôi phải đắp một chồng đá để leo
lên, những viên đá lấy từ những tòa nhà đổ nát. Những chồng đá này là lưng tôi đau nhức, mỗi ngày phải hạ
xuống dựng lên vài ba lần, tùy theo công việc tới đâu và cũng tùy hình tượng.
Thật đúng là công việc của Sisyphus! Thế nhưng không bao lâu sau, chồng đá
không còn đủ cao để vươn tới phần trên của bức bích họa. Vì thế tôi phải làm
một cái thang gỗ đóng tạm dựng trên chồng đá và đu đưa đáng sợ trên bậc cao
nhất của thang, mà nếu chỉ cần vô ý là ngã. Ngoài ra chân tôi tê cóng vì lạnh
nên thỉnh thoảng tôi phải xuống thang cho máu điều hòa lại và hưởng chút hơi ấm
của mặt trời ngoài điện. Muốn làm tay bớt cóng, chúng tôi ủ nó trên nắm cửa sắt
của điện để hưởng hơi nóng mặt trời.

Thêm một cái khó nữa là ánh sáng trong điện không
đều. Các ngôi đền của Tây Tạng được xây sao cho ánh sáng chiếu vào bức tượng
chính, xuyên qua một cửa sổ phía trên của vách đối diện hay qua một lỗ nhỏ của
mái điện nằm phía trên tượng. Nhờ thế mà ánh sáng chiếu từ tượng vàng làm sáng
đền để ta có thể ngắm nhìn các bích họa hay các vật khác trong đền. Thế nhưng
ánh sáng không đủ để có thể vẽ hay thực hiện các loại hình khác. Ngoài ra ánh
sáng phản chiếu từ tượng không cố định mà thay đổi tùy vị trí của mặt trời nên
các vùng sáng trong điện cũng khác nhau. Vì thế chúng tôi cũng phải đổi chỗ
theo, hay có lúc phải dùng khăn trắng để chiếu thêm ánh sáng vào những góc quá
tối hoặc những chỗ nằm sau cột đền.

Thường thường chúng tôi phải ngưng công việc đang
làm chỉ vì muốn tận dụng một chỗ khác có ánh sáng tốt hơn; và quá trình này cứ
diễn lại cho đến khi tất cả chi tiết của các bức bích họa được vẽ lại. Việc
chụp hình cũng rất khó khăn trong điều kiện này và ngay cả Li vốn là thành viên
của Hội nhiếp ảnh Hoàng gia Anh cũng trải qua một thời gian căng thẳng để chụp
hình trong điện; vì chúng tôi không hề có bộ phận nháy sáng hay các phương tiện
hiện đại khác. Trong thời kỳ đó, các phương tiện chụp hình còn hết sức khó tìm
tại Ấn Độ và chúng tôi phải mừng là kiếm được phim cho những chiếc máy hình,
chúng đã phục vụ chúng tôi một hay hai thập niên. Li có một chiếc máy Kodak số một, loại ba, bao da xưa, có một ống
kính rất tốt nhưng lại đòi hỏi thời gian thu hình rất lâu. Li không cần thiết
bị đo mà vẫn có một cảm giác không bao giờ sai về thời gian thu hình. Những nét
nổi của các bức tượng nhờ thế mà rõ hơn, nếu chụp với nháy sáng chưa chắc tốt.
Thế nhưng nhiều bức họa vì ánh sáng không đều nên hình không thể đẹp được. Ngay
cả các bức tượng của chỉ có thể chụp với các miếng phản chiếu ánh sáng đặt đúng
và sau khi quan sát ánh sáng nhiều ngày. Những bức tranh này, không kể các bức
bích họa sao lại, là những thành tích quí báu nhất của chuyến đi.

Trong số những bích họa tại Tsaparang thì bức
diễn tả đời sống Phật Thích-ca là đáng lưu ý và đẹp nhất. Đó là bức cổ nhất và
hoàn thiện nhất về đời sống của Phật được biết cho đến nay. Cả Ajanta, vốn được
xem là đỉnh cao của nghệ thuật họa hình Phật giáo, cũng chỉ có những tranh nói
về tiền kiếp của Phật và rất ít tranh diễn tả Đức Phật lịch sử. Thế nên chúng
tôi rất vui mừng tìm thấy các bức bích họa tại Tsaparang còn khá nguyên vẹn như
thế. Ngay cả thời gian hàng trăm năm chưa xóa mờ các màu sắc đậm hay các đường
nét tinh xảo. Các màu sắc còn như mới, hầu như chúng được vẽ trong thời đại của
chúng ta, chứ không phải cách đây tám chín trăm năm.

Trong hai ngồi đền chính, đền nào cũng trình bày
cuộc đời Đức Phật. Ngôi đền trắng cổ hơn và có một tượng Phật lớn rất cũ của
Thích-ca, làm bằng những miếng kim loại thếp vàng, chúng được hàn hoặc tán lại
với nhau. Lõm khung đựng tượng này được trang hoàng với bích họa rất tinh vi
trình bày cuộc đời Đức Phật. Những cảnh tượng trong bích họa này được vẽ sát
chồng lên nhau, để ta thấy mọi diễn biến trong đời Ngài nằm chung trong một
bức. Các bức họa đó nằm hai bên vách của khung nhưng đáng tiếc là bên trái đã
bị nước mưa làm lu mờ.

Còn trung tâm đền màu đỏ thì gần như mọi bức bích
họa đều nguyên vẹn, các bức bị phá hủy hay mờ nhòe thì phía bên đền trắng lại
còn. Đó thật là một sự tình cờ quý báu, nhờ thế mà chúng tôi giữ lại được toàn
bộ hình ảnh truyền thống về cuộc đời Đức Phật.

Tôi không muốn đi sâu vào các bức bích họa này,
vì chúng sẽ là nội dung của một cuốn sách riêng, trong đó công trình tái tạo kỹ
lưỡng và trung thực của Li Gotami về các bức bích họa sẽ được trình bày. Trong
lúc Li lo việc trình bày đời sống Đức Phật, tôi làm việc với các tượng lớn nằm
trên bích họa, phải đổi chỗ liên tục vì ánh sáng không đều. Các tượng trong đền
trắng gồm có hai loạt hình các vị Thiền Phật, mỗi Phật có quyến thuộc khoảng
mười hai vị ấn quyết khác nhau nói lên những khía cạnh khác nhau về thiền định.
Tổng cộng có khoảng một trăm ba mươi hình,
trong đó có sáu mươi lăm hình với
hoa lá, phần nửa còn lại được trang trí công phu xung quanh.

Trong đền đỏ, trên các bức trình bày cuộc đời Đức
Phật là những bức tượng to lớn hơn người thật. Những tượng này vì quá khuôn sáo
(có lẽ làm từ một khuôn, chỉ khác nhau ấn quyết và màu da) nên không hay lắm,
chỉ có các tòa sen lại rất đáng được chú ý. Chúng được thực hiện một cách hết
sức sáng tạo và trang trí công phu, trong đó các biểu tượng Phật giáo đan trộn
vào nhau một cách mỹ thuật. Đối với những tòa sen này xứng đáng được viết bằng
cả một cuốn sách về hệ thống của biểu tượng Phật giáo.

Với tất cả những báu vật của nghệ thuật tôn giáo
cao quí đó mà chúng tôi làm việc suốt ngày từ sáng tới tối, được thúc đẩy bởi
mối lo: mình là người cuối cùng có được vinh dự này, không những chỉ được nhìn,
mà còn thu hình và tái tạo chúng, để một ngày kia, những tư liệu mình thu thập
được sẽ là nhân chứng duy nhất và cuối cùng của chúng.

Chúng tôi được thuận lợi đặc biệt, vì có lẽ trong
lịch sử Tây Tạng, trước mình không có ai được phép chính thức tái tạo trực tiếp
những hình ảnh thiêng liêng này. Chúng tôi hết cố hết sức mình, với sự chính
xác cao độ, vẽ lại từng nét và tô lại từng màu. Về màu thì các mảnh vụn rơi ra
từ vách tường đã giúp chúng tôi làm mẫu và tái tạo các bức bích họa trong màu
nguyên thủy của chúng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3