Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 8

VỊ LẠT MA TẠI PHIYANG

Chúng tôi vừa lại đền thì tỉnh trưởng của Rudol
tới, đi cùng là sư trưởng của tu viện dòng Sakya tại Phiyang. Họ đến Tsaparang
đêm hôm trước và hôm sau lạt ma Phiyang lên đền màu đỏ, khi chúng tôi vừa tụng
kinh buổi sáng xong và định bắt đầu công việc. Vị lạt ma già với khuôn mặt đầy
râu trắng và vẻ thân thiện, tỏ ra cho chúng tôi một niềm tin ông là một người
chân thành tốt bụng và nghiêm túc. Sự giản dị, thái độ tự nhiên mà đáng kính và cách nói chuyện trầm tĩnh của
ông cho chúng tôi thấy không phải ngại ngùng và những câu hỏi của ông xuất phát
từ quan tâm tôn giáo chứ không phải để dò xét hay vì đãi bôi. Ông ngồi trước
đền màu đỏ trong ánh nắng và nói chuyện tôn giáo ngay với tôi. Trước hết, ông
hỏi tôi theo trường phái hay dòng nào, còn ông tuy và sư trưởng của một tu viện
dòng Sakya nhưng thật ra thuộc dòng Nyingma và Kargyut. Tôi kể ông nghe về đạo
sư Kargyut của mình và về Tomo Géché Rimpotsché và ông trả lời: “Không quan
trọng là dòng tu nào. Chỉ có một điều quan trọng thật sự, đó là phép thiền
định”. Sau đó ông nhắc lại một câu thơ nói lên ý này với những chữ: “Không có
thiền định thì không có pháp; chỗ nào có pháp, chỗ đó có thiền định”.

Tôi có cảm giác được nâng đỡ một cách lạ thường
với sự có mặt của con người này, người cùng ngồi với tôi, đơn giản và tự nhiên
trên mặt đất và trong chiếc áo cũ kỹ không có gì khác với một du sĩ đáng kính. Trong buổi nói chuyện, ông
không chút tò mò, ông không hỏi gì về cá nhân chúng tôi từ đâu đến, chúng tôi
định làm gì ở đây. Câu chuyện của ông chỉ xoay quanh các vấn đề tâm linh và
phép tu thiền định. Rõ ràng ông là người có tri kiến sâu xa nhưng ông đã bỏ
tham vọng của sự thông thái đơn thuần và đã chứng thực những thông điệp của
Phật trong đời mình.

Lần đầu tiên, chúng tôi không thấy tiếc công việc
mình bị gián đoạn, vì sau khi rời tu viện của thầy, chúng tôi về lại miền nam
Tây Tạng, chúng tôi chưa gặp ai có khả năng cho chúng tôi cái cảm giác đã chứng
ngộ như thế Vì sự chứng ngộ như hương thơm tự nhiên của một đóa hoa, nó trực
tiếp gây chú ý mà không có tính chất thôi thúc, nó lan tỏa xung quanh dù mọi
người có để ý đến hay không. Chúng tôi không giải thích được nhưng lạt ma
Phiyang tỏa ra một niềm an bình làm mọi lo lắng của chúng tôi như tan đi. Cuộc
chạy đua với thời gian làm cho chúng tôi luôn luôn bị căng thẳng bỗng nhiên
chúng tôi cảm thấy vui lòng và bình an, thấy thời gian như không còn hiện diện.
Với sự có mặt của lạt ma Phiyang, dường như tất cả vấn đề hết nặng nề và chúng
tôi chỉ mong muốn là ông ở lại lâu hơn với mình. Thế nhưng ông nói là trên
đường đi Ấn Độ để thăm các thánh tích, ông đã nhận lời cùng đi với vị tỉnh
trưởng Rudok bao lâu hai người còn đi cùng hướng.

.

*

* *

Sau khi cùng với lạt ma Phiyang về lều đá, vị
tỉnh trưởng Rudok cũng đến và tham gia câu chuyện. Tỉnh trưởng là một người
sống động, dễ mến, cởi mở và muốn nghe tất cả mọi chuyện và ấn tượng của chuyến
đi chúng tôi, nhất là sinh hoạt của xã hội tại Lhasa mà chúng tôi quen một số
người. Li đã chụp hình khá nhiều những người đó và nhân dịp này đem ra cho ông
xem. Qua đó chúng tôi biết là có bạn quen chung với nhau. Đặc biệt nhất là vị
tỉnh trưởng muốn có hình của vài cô mà Li nhất định đòi lại mới được, bằng cách
nói là không thể đưa hình cho người khác nếu không có sự đồng ý của họ. Vị lạt
ma Phiyang có vẻ vui cười khi thấy sự nhiệt tình của vị tỉnh trưởng này về phái
đẹp, thế nhưng ông cũng không phá bĩnh câu chuyện vì thấy anh ta ham thích câu
chuyện về người và vật, nhắc lại những kỷ niệm đẹp mà ngày nay với chức vụ tại
Rudok ông bị mất mát nhiều.

Hai người đàn ông này khác nhau biết bao: một bên
là một thanh niên yêu đời của nhân thế và bên kia là một người già minh triết!
Thế nhưng xem ra hai người là bạn đường xa được; người thanh niên với sự vui
tính tự nhiên và tính chất cởi mở, ông già với sự hiểu biết nhân hậu và lòng hỉ
xả vô biên.

Ngày hôm sau hai người đã lên đường và khi
Phiyang Rimpotsché đến chào từ giã, chúng tôi buồn thật sự. Để chứng tỏ tình
cảm, chúng tôi tặng ông một ấn bản của Đức Phật tại Lộc Uyển (tượng của thế kỷ
thứ 6). Chúng tôi vốn mang theo ấn bản này để đi đường nếu cần, sẽ tặng một vị
lạt ma cao trọng. Dịp này đã đến. Nhưng rất đổi ngạc nhiên, vị lạt ma từ chối
quà tặng một cách chân thành và chúng tôi hiểu ông rất thành tâm khi nói: “Cám
ơn ông bà về tình cảm quí báu, nhưng tôi không cần hình ảnh bên ngoài của Đức
Thế Tôn, vì Phật luôn luôn hiện diện trong tim tôi”. Sau đó ông ban phước và từ
giã chúng tôi.

Chúng tôi cảm thấy hết sức cô đơn, giống như có
một người rất gần gũi trong đời bỗng nhiên đi xa. Nếu công việc còn dang dỡ
không níu chân lại, có lẽ chúng tôi đã xin phép đi theo chuyến hành hương.

Thế nhưng ai có ngờ là ước mong đó lại được thực hiện, điều mà trong giấc mơ
chúng tôi cũng không dám ước - một sự thực hiện mà qua đó ấn tượng đầu tiên về
người này đã được minh chứng rằng chúng tôi đã gặp một con người với trình độ
tâm linh phi thường, một người có khả năng và ý chí, chia sẻ những thành tựu
của mình cho kẻ khác.

ĐẤU TRANH VỚI THỜI GIAN VÀ CHƯỚNG NGẠI

Vị lạt ma Phiyang vừa đi thì thời gian trở thành
có thực và cuộc chạy đua với nó bắt đầu. Chúng tôi đã rõ là kể từ nay không
phải từng ngày mà từng phút là quý báu. Chúng tôi thức dậy với tia sáng đầu
tiên của mặt trời chiếu qua khe của vách gồm những tảng đá chất lộn xộn bên
nhau và chúng tôi ra về khi trong đền đã quá tối và mặt trời đã lặn sau rặng
đá. Chúng tôi không dám phí thời giờ vì cả chuyện ăn trưa. Vì lý do đó mà chúng
tôi nấu nướng và ăn uống sau khi mặt trời lặn. Có khi chúng tôi làm việc thêm
dưới ánh nến với những bản vẽ và ghi chú trước khi đi ngủ, cho đến khi ngón tay
chúng tôi còn động đậy được nhờ hơi nóng của chén xúp. Nhiệt độ trong phòng
không bao giờ lên quá số không và điều này thường xảy ra là trà mới pha đôi lúc
quên uống vì trò chuyện, đã đóng thành khối băng trong tách gỗ.

Muốn rửa tay rửa mặt, chúng tôi phải đập băng
trong thau, vì nước đóng thành băng ngay sau khi Wangdu mang từ dưới lũng lên
trong một bình gỗ và đổ thau cho chúng tôi. Để có nước nấu ăn pha trà, bình gỗ
phải để bên cạnh lò lửa trong động của Wangdu. Vì chất đốt, thường là trấu, có
khi phân trâu, rất hiếm; phải mang từ lũng lên mới có, nên ông dùng chung để
nấu ăn với cái lò đặt giữa chỗ ngủ của chúng tôi và cửa động.

Thức ăn chủ yếu của chúng tôi là bánh kèm ít bơ
mà chúng tôi đã mua với giá cao tại Tholing Gompa; và buổi tối chúng tôi thêm
một loại xúp đặc có sữa và bột. Cuối cùng khi bơ của Tholing hết, chúng tôi gửi
một người của Tschamba-Lhakhang đi Tholing, nhưng tu viện ở đó cũng hết bơ nên
phải tìm những người chăn trừu gốc Nomade ỏ Tschang-Thang. Sau một tháng người
đó về, cầm theo được hai thỏi bơ mỗi thỏi nặng một lạng, có mùi phó mát hơn mùi
bơ.

Nói thế nhưng tượng Phật và bích họa trong các
đền làm chúng tôi hào hứng hơn nên chuyện ăn uống không đáng lưu ý. Song song
chúng tôi cũng không thể làm ngơ một điều là lương thực ngày càng ít đi với tốc
độ đáng sợ. Cuối cùng chúng tôi khám phá sau bao đựng thực phẩm có một cái lỗ
to. Chúng tôi thầm lặng bít lỗ và chất đồ ăn ở một chỗ an toàn hơn - xa cánh
tay đã thò vào lỗ.

Vài ngày sau thì không có gì xảy ra nhưng sau đó
đồ dự trữ lại hao hụt. Phải chăng ổ khóa mà chúng tôi khóa cửa gỗ mỗi sáng
trước khi đi làm, đã bị mở ra trong lúc vắng mặt? Muốn chắc chắn, chúng tôi
niêm phong ổ khóa mỗi sáng. Nhưng ổ khóa không bị ai mở, cũng không có dấu hiệu
gì nơi vách tường chứng tỏ có trộm. Vậy tại sao dự trữ lại hao hụt hơn chúng
tôi sử dụng nhiều. Chúng tôi chắc kể trộm chỉ có thể Wangdu hay bè bạn bà con
thỉnh thoảng tới thăm. Nhưng lạ một điều là ai đó có thể vào được mà không mở
cửa hay đục vách. Nhưng đục vách thì không thể vì phải tốn nhiều thời giờ và
thế nào cũng để lại dấu vết, điều mà chúng tôi đã khám phá ra ngay nhờ từng có
kinh nghiệm. Để đề phòng, thỉnh thoảng hai chúng tôi có người bất ngờ về lều
đá, như bỏ quên điều gì.

Wangdu có một người anh em rễ, thỉnh thoảng tới
thay công việc, anh ta nói với chúng tôi là cũng có quyền được làm để kiếm ít
tiền. Điều mà lúc đầu hai người vui vẻ thỏa thuận với nhau, dần dần trở thành
một chuyện tranh chấp và tới ngày nọ thì hai người tranh nhau dữ dội, người này
muốn loại bỏ người kia ra ngoài. Lần đó chúng tôi đang ở trong lều, khi chuyện
tranh chấp bắt đầu. Hình như có ai đạp người kia và không cho vào phòng. Bỗng nhiên có tiếng đổ
rầm - cả hai người lẫn chiếc cửa sập đổ vào phòng! Và chúng tôi hoảng hồn khi
thấy cửa bật ra khỏi bản lề. Thế là câu trả lời đã rõ.

Hóa ra khi mỗi ngày khóa cửa và niêm phong ổ khóa
để đi đến đền thì kẻ trộm chỉ việc nâng cửa ra khỏi bản lề và tha hồ lấy đồ dự
trữ của chúng tôi. Và sau đó họ chỉ việc cho cửa vào lại bản lề và buổi tối
(hay bất cứ lúc nào) khi chúng tôi về thì ổ khóa và niêm phong còn nguyên. Kể
từ đó chúng tôi niêm phong luôn mặt kia của cửa và không còn bị mất trộm thức
ăn nữa.

Trong thời gian đó thì một tháng rưỡi đã trôi qua
và vị tỉnh trưởng Tsaparang, có lẽ ông đã trên đường đến Shipki, không nhắn gửi
gì chúng tôi cả. Có thể đến Shipki không thấy chúng tôi, ông sẽ gửi người đi
Tsaparang xem ra sao. Lúc đó có thể thêm một tháng trôi qua và phần lớn công
việc của chúng tôi đã xong. Mặt khác cũng có thể lúc đó các ngọn đèo Himalaya đều bị tuyết phủ và lúc đó có bắt chúng tôi đi
Ấn Độ cũng không được. Đối với chúng tôi thì chuyện xảy ra cũng không sao, miễn
là công việc có tiến triển.

Khoảng giữa tháng mười hai thì có chuyện chẳng lành xảy ra. Một chiều nọ một vài người xem ra thô
lỗ đến Tsaparang và ngủ tạm trong hang của Wangdu, cả đêm họ uống rượu và la ó.
Sáng hôm sau có một người đàn ông mặt mày tối om, mắt chột (về sau người ta kể
gã bị mất một mắt trong một vụ bắn nhau ở Tschang-Thang) đến báo là vị tỉnh
trưởng ra lệnh chúng tôi phải rời Tsaparang và ông có lệnh hộ tống chúng tôi
đến đèo biên giới.

Vì các bản sao bích họa mới xong phân nữa, chúng
tôi nói với ông là sẵn sàng đi, chỉ xin tỉnh trưởng cho thêm ít ngày để làm cho
xong. Để tranh thủ thời giờ, tôi vội viết cho tỉnh trưởng một lá thư và nhờ một
người trong bọn mang đi. Tôi cũng không chờ đợi thư chấp thuận nhưng đoán là cả
tuần sau thì người dưa thư mới về lại. Vị tỉnh trưởng, theo lời các người trong
bọn kể, đã từ Shipki về lại và hiện đang ở hành dinh chính tại Schangscha.

Đúng như tôi đoán. Sau một tuần người đưa thư về
lại và nhờ đó mà chúng tôi hoàn thành được công việc. Li đã làm xong bản vẽ đời
sống Đức Phật, còn tôi đã sao lại hầu hết tất cả các bích họa trong ngôi đền
trắng cũng như phần lớn tượng trong đền đỏ. Ngoài ra Li cũng làm được ấn bản
của một loạt tranh các buổi lễ khánh thành đền, nhờ đó mà ta có hình dung rõ
nét về những người đã xây dựng hai ngôi đền.

Chỉ một ngày sau khi người đưa thư về, hai ngôi
đền bị niêm phong theo lệnh của tỉnh trưởng. Đó là một ngày buồn rầu cho chúng
tôi, hôm đó chúng tôi cử hành rước lễ trước những bức tượng vàng của Phật,
những tượng mà mỗi ngày đều gây cảm hứng suốt ba tháng nay và cúi nhìn chúng
tôi mỉm cười từ bi. Lúc này, lúc phải từ giã tượng, chúng tôi thấy như xa người
bạn quí nhất. Đối với chúng tôi, tượng là hiện thân sinh động của trí huệ và từ
bi. Tượng khiến lòng chúng tôi tràn ngập sự tinh tấn và phấn khởi, chúng tôi đã
làm việc dưới sự bảo vệ của tượng. Các tượng đó đã giảng pháp bằng tiếng nói
không lời về cái đẹp bất hủ nằm trong tim chúng tôi, cái đẹp đó sẽ sống mãi
dưới dạng linh ảnh của thành tựu cao quý nhất. Chúng tôi rời các ngôi đền với
lòng biết ơn sâu xa. Chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ của mình và không thế lực
nào của thế gian có thể cướp đi những gì chúng tôi đạt được.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3