Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 9
KHÁM PHÁ ĐƯỜNG ĐÁ BÍ MẬT VÀ ĐỀN MAN-ĐA-LA
Sau khi các đền bị niêm phong, lần đầu tiên chúng
tôi có thời giờ để đi xem phế tích và các vùng lân cận đồng thời có dịp vẽ và
chụp hình. Không thiếu những cảnh hấp dẫn và xinh đẹp và vì công việc chính đã
hoàn thành, chúng tôi yên lòng theo đuổi những ý thích sáng tạo riêng. Đó là
cách hay nhất để quên nỗi buồn chia xa và bớt đi sự trống rỗng trong lòng.
Trong lúc Li lo vẽ cảnh gần tháp thờ ở mặt sau
vùng đá núi Tsaparang thì tôi xem xét lại các phế tích nằm phía trên các ngôi
đền, chạy dài gần đến chân đỉnh đá thẳng đứng mà trên đó ngày xưa là các lâu
đài vua chúa đứng dựng trên bầu trời - trông rất kiêu hãnh và gần như không thể
đạt tới. Tôi cứ mãi nghĩ đến một bí mật nào đó nằm trong các cung điện hoang
tàn này và hẳn phải là lý do tại sao viên tỉnh trưởng không cho mình ở đây lâu.
Chắc ông lo ngại ngày nào đó chúng tôi sẽ tìm ra phương tiện và cách thức leo lên
đến đỉnh núi đá hay con đường bí ẩn nào mà ông muốn giấu.
Ý tưởng này nằm trong đầu tôi khi đi quanh trong
các con đường dọc ngang của tòa nhà đổ nát cho tới lúc tôi đứng trước một vách
tường đá và nghĩ là sẽ bỏ ý định tìm tòi. Tôi vừa định quay về thì để ý ba tảng
đá nằm chồng lên nhau dưới chân núi và tôi bỗng thấy rằng chúng không thể tình
cờ nằm chồng như thế, nó phải có bàn tay con người. “Thế nhưng với mục đích
gì?”, tôi tự hỏi. Phải chăng để làm dấu hay bảng chỉ đường hoặc có mục đích
trực tiếp hơn: bậc thang cho một nơi nào đó khó tới. Tôi leo đứng lên các tảng
đá và với tay lên trên thì tay đụng một lõm núi mà đứng phía dưới không thấy
được. Và tôi níu tay leo lên, đạp chân lên đá, tay kia lại đụng một mỏm đá
khác, cứ thế mà lần lượt tôi leo lên đến bờ của vách đá. Trên đây tôi thấy mình
đứng nơi phần dưới của một
hẻm núi bị nước mưa xói mòn và nhiều sỏi trơn trợt. Tôi trèo qua đống sỏi và
đến một hẻm núi có bậc thang mà tôi tin chắc nó là đường dẫn lên các cung điện
cũ của vua chúa.
Niềm vui của tôi kéo dài không lâu vì bậc thang
sớm biến mất trong cảnh hoang tàn nên tôi lạc lối trong phế tích. Cuối cùng lại
thấy mình ở cửa vào. Giải pháp duy nhất còn lại là cứ theo hẻm núi đầy sỏi và
đá đổ mà đi. Nhờ đó mà không lâu tôi thấy một hẻm núi có bậc nữa, còn nguyên
vẹn hơn cái trước và dẫn đến một cao nguyên mà từ đây nền đá trung tâm của
Tsaparang vọt thẳng lên cả trăm mét. Tôi tìm không thấy một chỗ nào có bậc
thang. Thế là vị tỉnh trưởng có lý khi nói đường vào cung điện và đền đài đã bị
phá hủy.
Khi đã đến đây rồi ít nhất tôi cũng tìm xem vài
hang động nằm dưới chân đỉnh đá, với hy vọng còn dấu tích gì của bích họa, đồ
gốm hay hình tượng gì, thường có trong động, nhưng cũng không thấy gì. Thế
nhưng tôi lại thấy cái mình ít chờ đợi nhất; một trong những động chính là cửa
vào của một đường hầm, sau một đường cong thì nó ngoằn ngoèo dẫn đi ngược lên
cao, có khi đi sát bờ tường có ánh sáng lọt vào. Tôi theo đường hầm, tim đập
thình thịch. Càng leo lên cao, tôi càng háo hức chờ đợi và đồng thời cũng càng
lo ngại nếu phải lọt vào một đường cùng hay giờ cuối bị trở ngại thì tất cả đều
là toi công.
Vì thế nên tôi càng mừng lúc hết đường hầm ra lại
thấy ánh sáng mặt trời và thấy mình đang đứng trên đỉnh Tsaparang, chỗ mà suốt
một thời gian chúng tôi nghĩ là không lên được. Cảnh quan nhìn từ đây ra là
phần thưởng cho công khó leo lên. Tôi thấy Tsaparang nằm trên đỉnh đá, đỉnh này
được cắt khỏi rặng núi bởi hai lũng sâu và hai lũng này chảy dài tới sông
Langtschen - Khambab. Mặt trên của sông là một vùng núi đá lởm chởm in đậm nét
trong bầu trời xanh. Nó giống như một loạt những giáo đường kiểu gô-tích với
tháp đá và đỉnh nhọn hoắt. Phía sau
lô nhô những đỉnh tuyết và mặt trời rực rỡ màu sắc hiện ra trong vắt.
Tôi hầu như đứng giữa một man-đa-la mênh mông gồm
những dạng hình và màu sắc siêu nhiên; đó là trung tâm của những sắc hình có
mối liên hệ mật thiết với nhau; hầu như nó là tiêu điểm của mọi sức mạnh của
trời đất, sức mạnh đó đã tạo hình cho cảnh vật xung quanh. Theo nguyên lý kỷ hà
này mà mọi chốn thiêng liêng và trung tâm uy lực được xây dựng; trong đó yếu tố
tâm linh luôn luôn đóng góp vai trò chủ đạo, phù hợp với quy luật thiên nhiên
và ý niệm thiện mỹ của con người. Những lâu đài của vua chúa hoàng tộc chính là
pháo đài của lòng tin và chốn thiêng liêng của các thần bảo hộ, nơi mà công
chúng không được vào, chỉ dành cho người đã được quán đỉnh, đã được huấn luyện
chuẩn bị hàng năm trời.
Với ý thức đó, tôi đi quanh phế tích của đền đài
cung điện, chúng là chứng nhân thầm lặng của một quá khứ lớn lao chiến thắng và
thảm kịch, niềm say mê của con người và lý tưởng, tham vọng quyền lực và lòng
xả thân tôn giáo. Một sự yên lặng hầu như đáng sợ ngự trị nơi đây, chỗ nằm giữa
trời và đất và có lẽ tham dự vào cả hai nơi; vào cái niềm vui của cảm khái
thiêng liêng và cái khổ tận cùng do tham vọng và quyền lực của con người gây
ra. Tôi đi như trong mơ, như dệt trong một thực tại bốn chiều của quá khứ và
tương lai - và bỗng nhiên đứng trước một cánh cửa khép hờ của một tòa nhà còn
nguyên vẹn hoàn toàn, nó được giữ lại như một phép lạ giữa cảnh hoang tàn.
Với một cảm giác kỳ lạ, tôi bước vào trong sự yên
tĩnh của căn phòng mờ mờ, trong đó như hiện diện cái bí ẩn của hàng trăm năm,
số phận một quá khứ uẩn khúc hầu như muốn bày tỏ cho tôi. Khi mắt tôi dần quen
với bóng tối thì những gì mình đoán đã thành sự thực; tôi đang đứng nơi chốn
linh thiêng nhất của một ngôi đền bí ẩn, chỗ điểm đạo, đó là nơi mà man-đa-la
của “niềm an lạc cao quí nhất” xuất hiện trước kẻ được quán đỉnh, chỗ thấy được
báo thân các vị thiêng liêng và biểu tượng của vũ trụ.
Lần đầu tiên tôi được tới với thế giới ẩn mật này
là lúc có mặt Tomo Géché Rimpotsché và dưới sự hướng dẫn của ông thì đó là một
sự chứng thực sinh động đối với tôi. Tôi dành một năm để học tập về man-đa-la
này, trong thời gian đó nó là trung tâm của đời sống tâm linh của mình. Thế
nhưng hồi đó tôi cũng biết mình chưa mở được tấm màn che đậy phép tu ẩn mật
nhất này của Mật tông. Trong thời Liên Hoa Sinh, nó đã đưa vào Tây Tạng và trở
thành một trong những phép tu truyền thừa cổ và quan trọng nhất, được giữ ở mức
cao cấp cho các trường phái của Phật giáo Tây Tạng, từ Nyingmapa cho đến
Gelugpa.
Man-đa-la chứa đựng toàn bộ các bước hình thành
thế giới tâm linh xuất phát từ trung tâm sâu kín nhất của thức - sự phát triển
thành sắc hình từ cái không vô tướng và vô tận - thông qua những chủng âm của
các năng lực của dạng hình và nhờ sự kết tinh của các biểu hiện then chốt của
chúng, mà màu sắc và hình dạng hiện lên trong một hình ảnh trung tâm của vũ
trụ, hình đó cứ tiếp tục rung động thành vòng tròn lan mãi để hiện thành thế
giới vật chất. Trung tâm đích thực và phi thời gian của thế giới đó được thể
hiện bởi núi Tu-di, nó là trục tĩnh tại, là mặt cắt đầy đủ nhất của vũ trụ,
trong đó hình ảnh của các cõi sinh tồn đều có mặt, từ các cõi thiên cho đến các
thế giới khác, các cõi mà các tầng lớp ý thức càng lúc càng mạnh mẽ và trong
suốt. “Một thế giới của những cái nhỏ hình thành, ngập đầy những năng lực uyên
nguyên, trong vũ trụ thì tác động như năng lực vũ trụ, trong con người là sức
mạnh thể chất và tinh thần. Trong sự trình bày chi tiết đó, phần lớn những kích
thước đều lấy từ các giáo pháp tâm linh hay các huyền thoại. Vài kích thước đó
đều chung nhất và rõ ràng đến mức người ngoài cuộc cũng có thể thấy được tính
chất vĩ đại của những sự sáng tạo, cho họ cảm nhận được rằng, mình đang tham dự
vào một màn kịch tâm linh lớn, nó cho ta lòng cảm khái cao nhất và quí nhất.
Lĩnh vực cao nhất của tầng lớp ý thức nói trên
được biểu hiện bằng một ngôi đền thiêng làm bằng chất liệu thanh tịnh và quí
báu và chứa man-đa-la của “niềm an lạc cao quí” và của sự chứng thực toàn vẹn
nhất của tâm giác ngộ, trong đó nó chiếm vị trí trung tâm của bậc cấp. Nơi
trung tâm của man-đa-la thực tại cao nhất được diễn tả bằng sự giao hòa nhất
thể của thần Demtschog và dạng trí tuệ siêu việt của ngài được biểu diễn bởi nữ
thần Dorje Phagmo.
Với mười hai tay chân của cặp nam nữ thần, đó là
biểu hiện của “mười hai nhân duyên”, thần Démtchog xé tấm da voi của vô minh;
với bốn khuôn mặt biểu hiện của tứ đại chiếu rọi trong bốn màu, thần thâm nhập
và bao trùm bốn hướng của không gian với bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả. Mỗi khuôn mặt có ba mắt, vì cái nhìn của
thần đi suốt ba cõi (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) và ba thời (quá khứ, hiện
tại, vị lai). Thân của thần có sắc xanh, nó biểu hiện tính vô tận, thường còn
và nhất thể của không gian bao trùm mọi sự; tức là nguyên lý của Tính Không bao
trùm và hiện hữu thường hằng, là gốc của mọi thực tại.
Thân của Dorje Phagmo có sắc đỏ, biểu tượng lòng
quên mình năng động vì lợi ích của
tất cả chúng sinh. Thần chỉ có một khuôn mặt, biểu thị sự vắng bóng mọi ảo giác
che đậy. Hai vị thần ôm chặt lấy nhau, biểu hiện sự không tách lìa của thân và
tâm - sự nhất thể của trí huệ và đại lạc.
Và tất cả những hình tượng thiên thần khác, nằm
trên các bậc cấp khác, quanh vị nam thần nữ thần đại diện cho trí tuệ của mình,
các vị đó là phản ánh các cấp bực khác nhau của thực tại. Tất cả chư vị đều
quên mình trong vũ điệu của vũ trụ, diễn tả cái an lạc cao quí nhất, xuất phát
từ sự hợp nhất của Bát Nhã (prajna) và phương tiện (upaya), tức là của trí tuệ
và sự chứng thực của nó thông qua hình động từ bi. Mỗi một hình tượng này đều
hiện thân cho một tính chất hay mức độ trên đường thành tựu, đạo lộ đó diễn tả
các bước trong phép thiền quán sâu xa và bao trùm này.
“Ta phải làm gì để biến linh ảnh thiền định thành
sự thực? Mỗi hình dung phải được sinh động bằng cách tiếp đầy sức sống và năng
lực. Mỗi vị thần phải sống thực, mỗi năng lực sử dụng trong thiền định phải trở
thành khả năng cao nhất. Toàn thể cơ cấu của man-đa-la này phải rung lên đầy
sức mạnh, đủ khả năng bắt liên hệ với các sức mạnh lớn lao trong vũ trụ, chúng
vốn chỉ bị thu nhỏ lại trong mỗi kẻ thiền định đơn lẽ. Đối với đầu óc tâm linh
thì vũ trụ chứa đầy tư tưởng của thần linh, đầy những sức mạnh của ý chí lớn,
đầy những dạng hình mang thức, chúng miên viễn chiếu rọi trong không gian và
chính là bản chất của thế giới. “Thế giới chỉ là một tư tưởng trong đầu thượng
đế. Người ta phải cần tu học hàng năm để đạt sức mạnh của cái thấy (của linh
ảnh) và để cho thiền quán này sống lại với mọi chi tiết trong dạng một bản kịch
nội tâm. Vì mục đích này, nhiều mô hình của man-đa-la được xây dựng lên, trong
đó vũ trụ tâm linh được trình bày lại với đủ chi tiết. Người ta đã vẽ lại hàng
trăm hình tượng thần thánh và ma quỉ, từ những ngôi đền trang hoàng đày vàng
ngọc trên đỉnh Tu-di đến tám nơi thiêu xác, chỗ của thần chết và của quán đỉnh;
trong đó du già sư và các vị tất địa đã tái sinh và chuyển hóa tâm linh; trong
đó họ sống lại quá trình chết và sự chiến thắng ảo giác của cái chết: vì muốn
tái sinh, người ta đã quán đỉnh phải qua ngưỡng cửa cái chết.
Trong lúc nghiệm lại những điều này, tôi đứng
trên bậc cửa đền và hồi hộp nhìn vào phía trong tối đen. Nhưng điều gì đã xảy
ra? Những hình tượng nhiều vô số của các thần thánh ngày xưa vốn nằm trên
man-đa-la bây giờ nằm ngổn ngang quanh và trên bục. Rõ ràng chốn thiêng liêng
này đã bị một đội quân nào tàn phá khi Tsaparang thất thủ, sau sự sụp đổ của
triều đại Guge. Thế nhưng lực lượng tàn bạo không hủy được không khí thiêng
liêng của thánh địa này được. Vách tường vẫn còn bích họa với vẻ đẹp và màu sắc
đậm đà. Các bức bích họa vẽ một điệu vũ huyền bí của các vị thần nhiều tay
nhiều đầu, đang say sưa ôm chặt các người nữ, cho thấy một hình ảnh dễ sợ, vừa
toát ra sự tàn bạo vừa chứa cái đẹp. Đối với người đã được quán đỉnh thì nó là
bản đồ, với kẻ không biết thì nó là sự đe dọa. Sống và chết, sáng tạo và hủy
diệt, sức mạnh của ánh sáng và bóng tối đan lồng vào nhau trong một sự trộn lẫn
xoay tròn của chuyển hóa và giải thoát.
Tôi mở thật rộng cánh cửa đền nhưng ánh sáng vẫn
không đủ để có thể chụp hình các bích họa. Thế nhưng trong số những hình tượng
nằm lăn lóc dưới khung man-đa-la là một tượng Heruka bốn tay (một dạng của thần
Demtschog), được một không hành nữ đầy trí huệ Khadoma ôm chặt, và hình tượng
này diễn tả hòa nhập trọn vẹn giữa từ bi và trí huệ để đạt tới đại lạc. Hình
tượng này quá tuyệt diệu nên tôi mang nó trả lại cho các tượng khác của
man-đa-la vì tôi tin rằng với thời gian cả đền lẫn tượng không chóng thì chầy
sẽ bị tiêu hủy. Thế nhưng điều đáng mừng là ít nhất cũng ghi được một phần của
vẻ đẹp vô thường lên phim, để làm kỷ niệm cho tôi và cũng làm chứng nhân cho
hậu thế.
Trước khi đóng cửa đền, tôi nhìn lại lần cuối
thánh địa và đọc thần chú, qua đó nội dung của man-đa-la được sống dậy và tái
chứng nghiệm, chính là câu thần chú đã vang lên cách đây một ngàn năm tại chốn
này, câu thần chú đã sinh ra linh ảnh để ngôi đền này được ra đời. Lòng chắc
rằng những dấu vết cuối cùng của man-đa-la sẽ sớm mất đi, tôi cảm tạ mình đã
được nhìn thấy nó và có cơ hội được sống lại cái tinh thần đã xây dựng và ban
phép trong đền. Tính thiêng liêng của các chốn này không phải nhờ tôn tạo bên
ngoài mà có, mà nhờ hành động quên mình nội tâm và sự tập hợp tâm thức mà chỉ
qua đó, sức mạnh sáng tạo của thần chú mới biến thành hiện thực.
Tôi ra lại ngoài để thấy ánh sáng mặt trời, lòng
đầy niềm vui cảm tạ là niềm mơ ước cuối cùng tại Tsaparang đã được thực hiện và
trách nhiệm phải làm nơi đây đã hoàn thành. Trước khi trở về qua đường hầm đá,
tôi nhìn lai một lần nữa phong cảnh khoáng đãng, phế tích của kinh đô cũ và các
lũng sâu xung quanh. Sâu dưới chân, tôi thấy một bóng người đang cử động va đó
là Li, đang vẽ cạnh tháp thờ dưới chân núi. Tôi gọi Li - quên nghĩ tới cái nguy
bị ai khám phá. Li nhìn quanh ngạc nhiên không biết tiếng gọi từ đâu cho đến
khi nhìn lên và thấy tôi đứng bên bờ núi đá. Li ra hiệu tôi đừng cho ai biết
mình trên đó và người của viên tỉnh trưởng có thể đang đi tìm chúng tôi. Hy
vọng không ai nghe tiếng mình, tôi biến mất vào đường hầm và đi nhanh xuống
núi.
Vì Li cũng muốn xem Demtschog-Lhakhang nên ngày
hôm sau tôi cùng Li leo lên lại và mặc dù tôi đã đánh lạc hướng các người của
viên tỉnh trưởng bằng cách đi theo lối khác, nhưng họ đã nghi và gửi Wangdu đi
kiếm chúng tôi. Thế nên chúng tôi vừa ra khỏi Demtschog-Lhakhang (sau khi Li
vội chụp một số hình) thì Wangdu xuất hiện ở cuối đường hầm đá, nét mặt đầy bối
rối. Rõ ràng là viên tỉnh trưởng đã cấm Wangdu không cho chúng tôi biết đường
lên đỉnh và tìm mọi cách ngăn cản đến viếng những đền đài xưa. Việc Wangdu
nhiều lần phủ nhận có đường lên đỉnh Tsaparang là bằng chứng đầy đủ cho chuyện
đó rồi. Thế nên chúng tôi nói với ông là tỉnh trưởng sẽ không biết chuyện này
nếu ông không nói gì lại cho ai nghe. Điều này rõ ràng làm ông yên lòng và
chiều hôm đó ông còn vui lòng chỉ cho chúng tôi xem đền Yamantaka, chỗ mà chúng
tôi cố tránh vì đã hứa với vị tỉnh trưởng chỉ làm việc ở các đền chính có các
vị thần “hiền lành”.
Sau kinh nghiệm tại Tholing, chúng tôi biết rõ
nỗi sợ của viên tỉnh trưởng là sẽ bị thần phạt nếu cho người lạ vào chốn linh
thiêng nằm ngay phía trên đền đỏ và nơi này luôn luôn đóng cửa. Không những đây
là trú xứ các vị hộ pháp đầy uy lực và đáng sợ, mà chỗ đó còn có những tượng
bằng kim loại đem về từ những đền và tháp thờ hư hại khác của Tsaparang. Ngôi
đền nhỏ đó thực chất là một kho báu gồm những đồ đồng tinh tế nhất mà chúng tôi
từng thấy. Nhất là các công trình về các vị thần phẫn nộ nhiều tay với nhiều nữ
nhân quấn quýt xung quanh cho thấy trình độ toàn hảo trong việc tạo tác nghệ
thuật trên kim loại mà ít nơi nào có được, nó xứng đáng đạt trình độ cao cấp
của nghệ thuật. Thế nhưng những công trình nghệ thuật đó, một số được mạ vàng
kỹ lưỡng, lại bị vất trong những phòng nhỏ và tối của điện nên Li chỉ chụp được
một số ít. Dù vậy chúng tôi cũng mừng vì đã nhìn thấy được một phần lớn vật
này.
Bây giờ không còn gì phải làm hơn là xếp đồ đạc
và chuẩn bị một chuyến đi dài ngày về hướng Ấn Độ. Thật khó từ giã nơi này
nhưng nỗi buồn mà chúng tôi cũng giảm đi khi nghĩ rằng mình đã làm tất cả trong
khả năng cho phép và cố gắng đó đã được đền đáp.