Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 12 (Hết)

LỜI CUỐI

THẦY, TRÒ VÀ LỐI VỀ ÁNH SÁNG

Vì Tomo Géché Rimpotsché là người đã mở cho tôi
cánh cửa Tây Tạng nên thật có lý khi tôi chấm dứt chuyến hành hương của mình
bằng vài lời nhắc nhở về vị hóa sinh trẻ tuổi Jihmé Ngawang Rimpotsché.

Sau cuộc gặp ngắn ngủ tại Gyantse cuối năm 1947,
chúng tôi không tìm lại ông được nữa; vì khi đến Ấn Độ thì ông đã trên đường về
Sera, chỗ mà ông tu học an toàn hơn. Ông ở đến đó năm 1959, tốt nghiệp bằng
Géché (tiến sĩ) và lấy lại chọ vị cũ của mình.

Vì tôi không còn khả năng đi xa từ chỗ ở hiện nay
đến Yi-Gah-Tscho-Ling-Gah Tscho-Ling hay Kalimpong, các tu viện Tomo Géché hay
lưu trú nên đành nhờ vị Sangharakshita Sthavira, người sáng lập và giám đốc của
Triyana Vardhana Vihara tại Kalimpong hỏi Rimpotsché liệu ông có nhớ tôi không
- người học trò cũ - và phải chăng ông đã nhận ra tôi tại Gyantse. Câu trả lời
của ông rõ và đơn giản: “Tôi biết Govinda”.

Chúng tôi sẽ gặp nhau, lúc nào tình hình cho
phép. Giờ đây bản thân tôi đã già như thầy tôi hồi xưa, còn ông trong thân tái
sinh thì trẻ hơn hồi tôi gặp ông ở đời cũ. Thế nhưng dù già hay trẻ, mối liên
hệ nội tại giữa thầy và trò vẫn tồn tại, dù cho bây giờ bên ngoài, vai trò có
thể hoán chuyển. Chúng tôi sẽ gặp nhau và lại gặp nhau đến ngày hai chúng tôi
làm xong trách nhiệm - tức là ngày chúng tôi hòa thành một với thứ ánh sáng đó,
đối với hai chúng tôi nó là cội nguồn mà cũng là mục đích, nó là cái gắn liền
chúng tôi qua bao nhiêu sinh tử.

Con đường tâm linh của họ và dòng sông đã trở
thành một và cũng trôi chảy về hướng mặt trời lặn, nơi đây hình nhưng là chỗ
sông gặp biển. Ánh của dòng nước đời sống chen lẫn với tia sáng của mặt trời
giác ngộ, và hầu như ngọn núi đơn độc của sự giác ngộ cá nhân có sáng lên cũng
là nhờ ánh sáng phản chiếu từ dòng sông, từ mặt trời lặn mà nó đang hướng vào.

Kasar Devi Ashram, Kumaon Himalaya

Tháng 11-1964

Bản Đức ngữ tháng 5/1968.

LỜI CUỐI CỦA NGƯỜI DỊCH

Hẳn có nhiều độc giả muốn biết dòng đời tiếp theo
của tác giả và số phận của tu viện Tsaparang, vì thế mà có phần này.

Sau khi vượt đèo về lại Ấn Độ khoảng tháng 7/1949 Govinda và Li Gotami đến Simla, một thành
phố phía Bắc Ấn. Đó là nơi hai ông bà gặp lại đời sống đô thị, thấy lại ô tô
trên đường phố, ăn kem lạnh. Khoảng năm 1950 hai ông bà định cư tại Deolali gần
Nasik, một thành phố phía Tây Ấn Độ cách Bombay quê quán của Li Gotami, khoảng
hơn một trăm kilô-mét. Suốt mười năm sau đó hai ông bà ở tại
miền đồng bằng này, dạy học, viết sách. Năm 1952 Govinda thành lập hội Arya
Maitreya Mandala. Cũng trong thời gian này Govinda liên hệ mật thiết với một
học giả lừng danh khác, Evans-Wentz, thảo luận và bổ túc thêm cho cuốn Tử Thư
(Bardo Thodol) do vị này xuất bản.

Khoảng năm 1960 Govinda nhận lời của Evans-Wentz
đến Kasar Devi, gần Almora thuộc miền Bắc Ấn, khá gần biên giới Tây Tạng và
Nepal và sống tại đó gần mười lăm năm. Đó là
một căn nhà nhỏ của Evans-Wentz, nơi cuốn Con đường mây trắng này,
bản tiếng Anh và tiếng Đức ra đời. Đây cũng là thời gian Govinda viết các tác
phẩm quan trọng khác như Grundlagen tibetscher Mystik (Cơ sở mật tông
Tây Tạng), Logic and Synbol in the Multi-Dimensional Conception of the Universe
(Ý nghĩa và biểu tượng trong nhận thức nhiều chiều về vũ tr
)…

Sau khi các tác phẩm này được sự chào đón nồng
hậu, Govinda và Li Gotami đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Tháng 7/1975, nhận lời mời cả một lạt ma tại Mỹ, Govinda
và Li Gotami sang định cư tại California.

Khoảng năm 1978 sức khỏe của Govinda bắt đầu giảm
nhưng ông vẫn làm việc tiếp tục. Năm 1979 hơn ba mươi năm sau khi đi Tsaparang, Li Gotami cho ra đời tác phẩm Tibet in
pictures (Hình ảnh Tây Tạng).
Năm 1981 Govinda viết xong và xuất bản
cuốn Die innere Struktur des I Ging (Cấu trúc nội tại của Kinh
Dịch),
trong đó ông khẳng định sự tương thích rõ rệt giữa Phật giáo và
Kinh dịch.

Tháng giêng năm 1985 Govinda từ trần sau một cơn
đau tim, chết yên lành trong tay người vợ và là người bạn đồng hành tuyệt vời
Li Gotami, thọ tám mươi bảy tuổi. Vài
tháng sau Li Gotami trở về quê hương Ấn Độ và từ trần trong tháng 8/1988.

Còn tu viện Tsaparang, cũng như số phận của các
tu viện chùa chiền tại Trung Quốc và Tây Tạng, phải chịu sự hủy phá do con
người gây ra trong cuối những năm sáu mươi của thế kỷ này dưới một chiến dịch mang tên là “Cách mạng văn hóa”. Tại
đất nước Trung Quốc mênh mông với một nền văn hóa thâm hậu này, những hồng vệ
binh trẻ tuổi đã phá hủy vô số đền đài tranh tượng do tiền nhân của họ để lại.
Thế nhưng, ngày nay người ta biết hồi đó nếu không có Thủ tướng Chu Ân Lai ra
tay can thiệp thì qui mô tàn phá còn ghê gớm hơn nữa.

Sau khi bị phá phách, tu viện Tsaparang phải đóng
cửa mãi cho đến năm 1985. Ngay sau khi Tsaparang được chính quyền cho phép
viếng thăm lại, có hai người Đức tên là H.Weyer và J.C.Aschoff đến đây trong
tháng 5/1986. hai
ông đã chụp hình màu các đền thờ màu đỏ, màu trắng và các tranh tượng trong đó
mà Govinda và Gotami đã khổ công sao chép gần bốn mươi năm trước. Những hình này hẳn phải là hình màu đầu tiên của tu viện vô
song này.

H.Weyer và J.C.Aschoff đã tập hợp các hình này và
cho xuất bản trong tập sách mang tên “Tsaparang - Tibets grosser
Gehimnis” (Tsaparang - Chốn ẩn mật của Tây Tạng).
Qua tập sách này ta
thấy nhiều tranh tượng mà Govinda mô tả này đã mất hẳn, một số khác bị hư hại.
Phần lớn các bích họa còn nguyên vẹn và màu sắc còn hết sức đậm đà. Ngược lại,
các tượng Phật đã bị hủy hoại nhiều, tượng nào cũng bị mổ ngực, mổ bụng vì
người ta hy vọng tìm thấy vàng bạc trong đó.

Người dịch tình cờ tìm thấy tập sách này sau khi
đã hoàn thành bản dịch Con đường mây trắng và cho rằng đây là
một nhân duyên to lớn nên lấy một hình của tập sách để độc giả tham khảo. Bức
tượng này trình bày Đại Nhật Phật, còn có tên là Tì-lô-giá-na (Vairocana) trong
đền thờ màu trắng của Tsaparang. Đây là bức tượng bốn mặt của vị Phật tượng
trưng cho Pháp thân, đã bị con người mổ ngực tìm vàng (tr.15). Hình tượng này
một mặt biểu hiện trình độ nghệ thuật xuất sắc của nghệ nhân Tây Tạng ngày xưa,
mặt khác cho thấy sự thô bạo của con người thời nay.

Ngày nay du khách có thể đến thăm Tsaparang và ta
thấy đã có đường xe hơi chạy ngang Ngân Sơn, giữa hai hồ Manasavar và Rakastal
cũng như đường dẫn đi Tsaparang và các tranh tượng vô giá trong đó vẫn còn đời
sống với thời gian, đúng như linh ảnh của Govinda được mô tả trong chương đầu
tiên của cuốn sách này.

NGUYỄN TƯỜNG BÁCH

Tháng 10.1999

KHÁI QUÁT VỀ TÂY TẠNG

Trước kia Tây Tạng là một nước độc lập, nay là
một khu hành chính ngang với cấp tỉnh của Trung Quốc. Nằm về phia tây nam Trung
Quốc. Tên chính thức: Khu tự trị Tây Tạng (Xiang Autonomous Region). Phía bắc
giáp Khu tự trị Tân Cương (Xinjiang Uygur Autonomous Region) và tỉnh Thanh Hải
(Quinghai Province). Phía đông giáp tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) và Vân Nam
(Yunnan). Phía nam giáp Myanmar, Ấn Độ, Bhutan và Népal. Và phía tây cũng còn
giáp với Ấn Độ.

So với vị trí các quốc gia trên toàn thế giới thì
Tây Tạng là nơi có địa thế cao nhất, xứ sở này nằm ở độ cao trung bình 4875m.
Chính vì vậy nó còn được gọi là xứ trên mái nhà của thế giới (theo Roof of the
World). Đồng thời là khu biệt lập nhất trên thế giới, nó bị những dãy núi cao
bao bọc ở ba phía. Phía nam: dãy Hỵmalaya, phía tây: dãy Karakorum, phía bắc;
dãy Côn Luân (Kunlun). Tổng diện tích: 1,2 triệu km2. Thủ phủ cũng chính là thành phố lớn nhất: Lhasa.

ĐIỆN POTALA Ở LHASA

Nằm trên một ngọn đồi cao 980ft (khoảng 330m) so
với thành phố Lhasa. Điện này là chốn tu trì và điều hành mọi việc thế tục cũng
như tôn giáo, là nơi đã chứng kiến bao thăng trầm của nhiều đời Đạt lai lạt ma
và của cả lịch sử dân Tây Tạng.

Trong điện đặc biệt có hai căn phòng đã tồn tại
từ thế kỷ thứ bảy đến nay.
Điện này có hai khu vực được đặt tên theo màu tường bên ngoài của từng phần
“Bạch dinh” (Dinh thự trắng 1645-1682) dưới triều của Đạt lai lạt ma thứ 5 và
“Xích dinh” (Dinh thự đỏ 1682-1693). Hiện nay hai dinh thự này được sát nhập
lại mặc dù trước đó mỗi dinh thự có một chức năng khác nhau. Bạch dinh có phòng
họp, cả một xưởng in và một số khu nhà ở. Xích dinh có nhà nguyện, am thất và
hầm mộ của tám Đức Đạt lai lạt ma. Mái của dinh được thếp bằng đồng. Toàn bộ
công trình kiến trúc cao 137 tầng, rộng 400 m, sâu 350 m có 1000 phòng. Bây giờ ngay trong điện Potala còn có một viện bảo tàng.

ĐẤT DAI VÀ TÀI NGUYÊN

Toàn bộ phần phía nam của Tây Tạng nằm gọn trong
dãy Himalaya mà trong đó nhiều ngọn núi cao nhất của thế giới thuộc về dãy này.
Một số các ngọn núi chính là Everest (8850 m - cao nhất thế giới), Namzha Parwa (7756 m) và Gurla Mandhata (7728 m). Còn có một dãy Himalaya
khác nữa mà người ta gọi là Xuyên Himalaya (Trans Himalaya) ở phía bắc mà đỉnh
của nó cao hơn 7300 m. Nằm giữa
hai dãy này là một thung lũng có con sông trải dài khoảng 1000 km từ đông sang tây. Con
sông Brahmaputra là sông chính ở đây (người Tây Tạng quen gọi là sông Yarlung
Zangbo). Nó chảy từ tây sang đông và đi qua hầu hết khu vực này.

Dãy Xuyên Himalaya nghiêng từ phía bắc đổ xuống
cao nguyên Tây Tạng. Cao nguyên này trải dài ra phía tây tới dãy Kasakohu và
trải dài ra phía bắc tới dãy Côn Luân.

Cao nguyên Tây Tạng này thỉnh thoảng cũng có núi
và có độ cao trung bình 4570m. Nó hơi dốc từ phía nam sang phía đông. Phần phía
đông của Tây Tạng là một khu vực có địa hình gồ ghề với một số dãy núi nằm theo
hướng bắc nam và có một số thung lũng sâu nằm rải rác.

SÔNG NGÒI, AO HỒ

Tây Tạng là nơi bắt nguồn của nhiều con sông
chính trên lục địa châu Á. Sông Brahmaputra là con sông quan trọng nhất Tây
Tạng. Các sông Ấn, Hằng và sông Sutlej ở Ấn Độ là thượng nguồn (headwater) ở
miền tây Tây Tạng. Có một số con sông như Salueen (Nu Jiang) bắt nguồn từ trung
Tây Tạng, còn thượng nguồn của sông Mékong (Langcang Jiang), Trường Giang
(Dương Tử - Chang Jiang), Hoàng Hà bắt nguồn ở miền bắc Tây Tạng. Nhiều sông ở
Tây Tạng có tiềm năng phát triển thủy điện rất lớn. Cao nguyên Tây Tạng có
nhiều hồ nước mặn nằm rải rác, chẳng hạn như hồ Ngangla Ringco ở phía tây và hồ
Namco (Na mutso) ở phía đông).

KHÍ HẬU

Tây Tạng có một khí hậu bán khô cằn, khắc nghiệt.
Lượng mưa trung bình hàng năm chỉ vào khoảng 311mm. Nhiều vùng khác mưa còn
thấp hơn thế nhiều. Vùng đông nam là vùng có lượng mưa nhiều nhất. Núi và cao
nguyên thường lạnh vơi các cơn gió lạnh thổi quanh năm. Còn khí hậu tương đối
cân bằng nhất chỉ có ở vùng ven sông.

Nhiệt độ trung bình hằng năm là 1.10 C. Sau hoàng hôn, nhiệt độ
giảm khá nhanh, đây là đặc trưng của Tây Tạng.

TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

Tây Tạng có rất nhiều tài nguyên khoáng sản,
nhưng rất ít được khai thác. Nhiều khu vực có quặng vàng. Cũng có mỏ với lượng
đồng đáng kể, sắt, than và các mỏ muối, borax. Ngoài ra còn có khoáng sản
mangan, phosphor, đồng, kẽm, thạch anh, đá grafit, đá tổ ong… Các loại đá quý như ngọc bích, ngọc thạch
và nhiều loại đá quý khác cũng có ở đây.

TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI

Cây cỏ ở cao nguyên Tây Tạng rất thưa thớt. Loại
thảo mộc mà Tây Tạng có là cỏ và bụi rậm. Ở vùng cực tây và cực đông có rải rác
rừng. Trung nguyên đầy hoa cỏ chủ yếu tập trung ở thung lũng Brahmaputra, sông
Ấn (Indes) và sông Sulej. Các vùng này thích hợp với một số loại cây đặc biệt
chẳng hạn như sồi, trắc bá, bạch dương và phong. Những cây ăn quả như táo, lê,
đào, mận cũng được trồng trong các thung lũng ven sông.

Động vật hoang dã ở Tây Tạng rất đa dạng. Vùng
núi có nai Musk, cừu hoang, dê rừng, lừa rừng, trâu Yack, giống linh dương Tây
Tạng. Những động vật lớn có vú là báo, cọp, vài loại gấu, chồn, chó sói và khỉ.
Chim muông có ngỗng đầu trọc, hải âu, le le và những loại vịt, ngan, ngỗng cũng
như giống chim trĩ và gà gô cát rất dễ thương.

DÂN SỐ

Người Tây Tạng chiếm đa số với một số cộng đồng
dân tị nạn từ Nepal và Ấn Độ. Một cộng đồng thiểu số khác người Hoa, càng ngày
càng tăng do di dân từ bình nguyên Trung Quốc sang.

Ngôn ngữ chính là tiếng Tây Tạng, một nhánh của
hệ Hán Tạng. Một bộ phận lớn cư dân sống đời du mục và bán du mục. Theo số liệu
thống kê chính thức Tây Tạng có 2.200.000 người. Hai triệu người Tây Tạng khác
sống lưu vong ở Népal, Ấn Độ và Trung Quốc. Tây Tạng là nơi có mật độ dân số thấp
nhất trong tất cả các tỉnh Tây Tạng và các vùng khác của Trung Quốc: 1,5 người/km2. Thành phố chính
duy nhất là Lhasa (với số dân 124.000 người - Thống kê 1992). Thành phố lớn thứ
nhì là Sigazé.

KINH TẾ

Các hoạt động kinh tế ở Tây Tạng chủ yếu xoay
quanh nông nghiệp tự cung tự cấp. Nuôi gia súc cũng khá phổ biến ở cao nguyên
Tây Tạng này. Người ta nuôi cừu, trâu bò và dê. Ngoài ra còn có lạc đà, yack,
ngựa.

Những vùng có cỏ cho gia súc gặm được rất ít, chủ
yếu tập trung ở các thung lũng ven sông.

Các vụ mùa chính là lúc mạch, lúa mì, kiều mạch,
lúa mạch đen, khoai tây và một số loại rau trái. Người ta cũng khai thác một số
mỏ than nhằm sản xuất có mở rộng nhưng cũng chỉ giới hạn ở các nhà máy quy mô
nhỏ.

Các thiết bị điện tử và công nghiệp vải sợi và
các ngành chủ yếu.

VĂN HÓA TƯ TƯỞNG

Tây Tạng theo tôn giáo truyền thống là Lạt ma
giáo. Đây là một nhánh của đạo Phật - nhánh duy nhất với hình thức phát triển
cao là Phật giáo Mật tông (esoteric). Ngoài ra ở Népal và Mông Cổ cũng có một
số người theo đạo này. Sự hành trì tôn giáo rất nghiêm nhặt. Lạt ma giáo tiếp
thu một số yếu tố của tín ngưỡng bản địa là đạo Bon. Đạo Bon là một hình thức
Phù thủy (Shamanum) có trước khi Phật giáo du nhập và Tây Tạng. Đến bây giờ vẫn
tồn tại, mặc dù nó đã bị pha tạp nhiều.

Ngoài ra ở Tây Tạng cũng có cộng đồng thiểu số
theo Hồi giáo, Kitô giáo và Hindu. Từ khi Tây Tạng sát nhập vào Trung Quốc năm
1950, tôn giáo đã bị kiểm soát chặt chẽ và Cách mạng văn hóa Trung Quốc năm
1966, Hồng vệ binh (Red Guard) đã phá hủy khoảng 2700 ngôi đền.

Nền văn hóa truyền thống của Tây Tạng cũng dựa
trên nền tảng Lạt ma giáo. Tính chất Mật giáo (exoteric) cao. Ở Tây Tạng còn
lưu giữ tương đối đầy đủ một số bộ kinh Đạt thừa quý. Lạt ma giáo có nhiều lễ,
hội.

LỊCH SỬ

Dường như người dân Tây Tạng đã di cư vào khu vực
thung lũng sông hoàng hà và cùng ở chung với các nhóm dân du mục Trung Á, Thổ
Nhĩ Kỳ.

Ngày xưa Tây Tạng được chia thành các tiểu quốc,
đến thế kỷ thứ sáu thì vua
Gnamri Srong-brtsan (Luân Tán Lộng Nang) đã thống nhất các tiểu quốc này. Srongtsen-Gampo
(Tùng Tấn Can Bố, 617-651) lên ngôi lúc mười ba tuổi. Nhưng năm sau ông cho xây dựng hoàng cung ở Potala và dời quốc đô
về đây. Sau đó ông đã bành trướng đế quốc ra đến Népal, phía tây Tây Tạng và
một phần Ấn Độ, thậm chí còn tạo được mối bang giao qua hôn nhân với triều
Đường. Đường Thái Tông đã gã công chúa Văn Thành cho Tùng Tán Can Bố. Từ đó du
nhập đạo Phật vào Tây Tạng, du nhập một loại chữ viết của Ấn Độ, đồng thời du
nhập các nền kỹ thuật canh nông tiên tiến của Trung Hoa.

Từ thế kỷ thứ bảy, quân đội Tây Tạng bắt đầu tấn công biên giới Trung Quốc dọc theo con
đường tơ lụa. Sự xâm lăng này lên đến cao trào vào năm 763, quân dân Tây Tạng
tiến vào đất Trung Quốc, bị cuộc nổi loạn An Lộc Sơn đánh tan tác và An Lộc Sơn
chiếm luôn kinh đô Trường An (Changian), bây giờ là Tây An (Xian). Cũng vào
khoảng cùng thời gian đó nhà sư (theo bán truyền thuyết) lừng danh của Ấn Độ là
Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) đến truyền giáo và hoằng pháp tại Tây Tạng. Sự
hoằng pháp này thành công mỹ mãn dưới thời vua Khri-Srong-Ide-brtsan và Liên Hoa Sinh đã sáng lập nên dòng tu
Bsam-yas (Samye).

SỰ CAI TRỊ CỦA MÔNG CỔ VÀ LẠT MA GIÁO

Vào khoảng gần cuối thế kỷ thứ mười, vương quốc Tây Tạng bắt
đầu phân rã, cuối cùng tạo thành nhiều lãnh địa manh mún. Phật giáo có lúc bị
lu mờ vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười một, nhưng các nhà truyền giáo Ấn Độ đã kịp thời khôi phục lại, các tu viện
vẫn tiếp tục truyền thống tôn thờ những vị tái sinh, thông thường cũng là
trưởng tu viện, đôi khi chỉ là một cậu bé được người ta tin rằng là hậu thân
của vị lạt ma trước. Năm 1240, một đội quân Mông Cổ xâm lược đã tấn công nhiều
tu viện; năm 1247, Hốt Tất Liệt đã chỉ định một trong những vị lạt ma hàng đầu
làm phó vương lâm thời cho mình ở Tây Tạng. Về mặt hành chính, đất nước Tây
Tạng bị tổ chức lại dưới sự bảo hộ của Mông Cổ.

Tây Tạng lấy lại được nền độc lập sau khi triều
Nguyên của Mông Cổ sụp đổ vào năm 1368. Những tu viện đối lập đã giành lại
chính quyền từ tay vị lạt ma Phó vương. Chính quyền thế tục này dã được lấy lại
vào thế kỷ thứ mười lăm. Phật giáo
Tây Tạng đã được hồi sinh nhờ công của nhà cải cách Tsongkhapa (Tông-khách-ba),
người sáng lập nên dòng tu mũ vàng (hoàng mạo). Năm 1587 vị trưởng dòng tu đời
thứ ba nhận tước hiệu Đạt lai - có nghĩa là rộng như là đại dương - từ tay Altakhan, một vị hãn người
Mông Cổ. Vị hãn này trên danh nghĩa là phó vương (khan-viceroy). Altal cũng đã
đem người dân Mông Cổ đặt dưới quyền lực tôn giáo của Đức Đạt lai lạt ma. Vị
trưởng dòng tu Gelugpa đời thứ tư được cho là đã tái sinh vào gia đình Altal,và
lực lượng quân Mông Cổ đã vào Tây Tạng để thực hiện yêu sách của vị tái sinh
nhưng bị chống đối bởi dòng tu Karmapa và giới quý tộc quyền thế của Tây Tạng.
Đến năm 1642, liên minh Mông Cổ - Gelugpa đã thiết lập một chính quyền thống
nhất trên toàn cõi Tây Tạng dưới sự cai quản của Đạt Lai lạt ma.

Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, người Mông Cổ và triều Thanh ở Trung Quốc đều liên quan đến một vị Đạt
lai lạt ma đời thứ sáu bị truất phế như một kẻ mạo danh. Năm 1720, quân đội
Trung Hoa đánh bật quân Mông Cổ ra khỏi Tây Tạng và được đón chào khá nồng
nhiệt ở Lhasa; hoàng đế nhà Thanh trên danh nghĩa cai quản toàn bộ đất Tây Tạng
và cơ sở những đại diện của mình cũng như những đơn vị đồn trú của mình ở
Lhasa, còn chính quyền thì nằm trong tay các vị Đạt lai lạt ma.

Sự can thiệp triệt để nhất cả nhà Thanh tại Tây
Tạng vào năm 1792 khi quân đội Trung Hoa giúp Tây Tạng đánh bại sự xâm lược của
người Gurka từ Népal. Trong lúc đó, các quan chức người Anh tại nước thuộc địa
Ấn Độ đang muốn giành một chỗ đứng ở Tây Tạng. Những cố gắng của họ xưa nay
chưa có kết quả, chủ yếu là do sự phản ứng của Tây Tạng trước việc xâm lăng của
người Gurka do Anh quốc hậu thuẫn. Mọi người ngoại quốc chỉ trừ người Trung Hoa
đều bị trục xuất khỏi Tây Tạng vào năm 1782. Nhà Thanh không hề giúp đỡ gì cho
người Tây Tạng trong cuộc chiến với người Ladakh vào năm 1842 và với Népal năm
1858. Năm 1904, Tây Tạng đã tương đối độc lập với Trung Hoa, nhưng lại bị quân
Anh xâm lược; người Anh lo sợ ảnh hưởng của Nga tại xứ này. Sự xâm lăng này đã
đặt nền tảng cho một hiệp ước song phương Trung - Anh vào năm 1796. Theo những
điều khoản của hiệp ước này, hoàng đế Trung Hoa được nhìn nhận là có chủ quyền
với nước Tây Tạng, trong khi Tây Tạng lại chẳng hề được hỏi ý kiến về vấn đề
này. Hiệp ước cũng nói đến việc trả một số tiền bồi thường lớn cho quân Anh để
họ rút quân khỏi Tây Tạng. Vào năm 1907, chính quyền Anh và Nga ký một hiệp ước
không can thiệp vào nội bộ Tây Tạng.

ĐỘC LẬP TRÊN DANH NGHĨA

Hiệp ước Trung - Anh đã tạo điều kiện cho nhà
Thanh xâm lược Tây Tạng vào năm 1910. Nhưng sau đó nhờ cuộc cách mạng lật đổ
nhà Thanh vào năm 1912, Tây Tạng đã giành được độc lập trên danh nghĩa từ tay
Trung Quốc. Mọi quân nhân người Trung Hoa bị trục xuất khỏi Tây Tạng. Năm 1914,
một hội nghị tổ chức tại Simla quy tụ đại diện của các chính quyền Anh, Trung
Quốc, Tây Tạng, một hiệp ước thăm dò được đặt ra để quy định các mối bang giao
song phương và đường biên giới giữa cá nước. Hiệp ước cũng quy định một nước
Tây Tạng tự trị và chủ quyền của Trung Quốc tại một vùng gọi là nội Tây Tạng
(innerTiber), vùng tiếp giáp với Trung Quốc. Chính quyền Trung Quốc sau đó đã
phản đối hiệp ước này. Năm 1918 quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và Tây Tạng
bắt đầu chuyển hướng qua xung đột quân sự; một lệnh ngừng bắn được đưa ra dưới sự
giúp đỡ của người Anh, vào tháng chín cùng năm. Những cố gắng hòa giải xung đột này đều không thành công và
chống đối lại nổ ra vào năm 1931. Các vị Đạt lai lạt ma vẫn tiếp tục điều hành
Tây Tạng như một quốc gia độc lập.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

SÁT NHẬP VÀO TRUNG QUỐC

Tháng 5/1951 một hiệp ước đã được ký trong đó quy định rõ quyền hạn của Đức Đạt
lai lạt ma là các vấn đề nội vụ, còn quyền hạn của Trung Quốc là các vấn đề
quân sự và ngoại giao.

Trong năm 1952, Trung Quốc đã xây dựng các sân
bay tại một số vùng của Tây Tạng và tiếp tục xây dựng các tuyến đường nhằm mục
đích phát triển giao thông liên lạc. Một năm sau đó Ấn Độ công nhận Tây Tạng là
một phần của Trung Quốc và rút các đội quân đang đóng tại hai đồn giao dịch
thương mại ở biên giới. Đức Đạt lai lạt ma sau đó được bầu làm Phó chủ tịch Hội
đồng Nhân dân Quốc gia. Theo những điều khoản của một hiệp ước được ký kết vào
tháng 4/1955, Ấn Độ
nhường lại cho Trung Quốc quyền kiểm soát hệ thống điện thoại, điện tín và dịch
vụ bưu chính của Tây Tạng. Một Ủy ban được lập ra vào năm 1956 để soạn thảo
hiến pháp cho Tây Tạng, Đức Đạt lai lạt ma được chỉ định làm chủ tịch.

Năm 1965 Tây Tạng chính thức là một Khu tự trị
của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa cho đến nay.

Thực hiện bởi

nhóm Biên tập viên Gác Sách:

Sienna – vuthungoc – Tiểu Bảo Bình

(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3