Việt Sử Giai Thoại (Tập 3) - Chương 07 - 08
7. CHUYỆN TRẦN QUỐC KHANG
Trưởng công chúa của Lý Huệ Tông là Thuận Thiên, nguyên trước đã gả cho con trưởng của Trần Thừa là An Sinh Vương Trần Liễu. Đến năm Đinh Dậu (1237), Thuận Thiên đang có thai được ba tháng thì bị chú là Trần Thủ Độ ép phải về làm vợ của vua Trần Thái Tông (em ruột Trần Liễu), được sách phong làm Thuận Thiên hoàng hậu. Em ruột của Thuận Thiên là Lý Chiêu Hoàng (nữ hoàng duy nhất, cũng là cuối cùng của họ Lý) thì nguyên là hoàng hậu của Trần Thái Tông lại bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa (1218 - 1278) vì lẽ... không có con, và sau đem gả cho Lê Tần.
Đứa con mà Thuận Thiên mang thai trước đó với Trần Liễu tên là Trần Quốc Khang, sau được phong làm Tĩnh Quốc đại vương. Kể ra, chuyện này tuy cũng có chút lắt léo, nhưng dầu sao thì về danh nghĩa, Trần Quốc Khang vẫn là con trưởng của vua Trần Thái Tông. Thế nhưng, năm 1258, Trần Thái Tông lên ngôi thượng hoàng, truyền ngôi cho con thứ là thái tử Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông) chứ không phải cho con trưởng là Trần Quốc Khang.
Đời cha là Trần Liễu, vì mất vợ mà sinh ra thù oán vua Trần Thái Tông nhưng đời con là Trần Quốc Khang, mang danh con trưởng mà không được truyền ngôi cũng chẳng hề đem lòng thù hận, ngược lại, anh em vẫn rất hòa thuận với nhau. Có một chuyện thật là cảm động về sự hòa thuận này đã được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 32a và 32b) chép lại như sau:
“Mùa đông, tháng 10 (năm 1268 - ND), vua cùng anh là Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang, cùng vui đùa trước mặt thượng hoàng. Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, thượng hoàng cởi áo ban cho. Vua cũng múa điệu múa ấy để xin chiếc áo của thượng hoàng, Quốc Khang nói: ‘Cái quý nhất là ngôi hoàng đế mà tôi còn không tranh với chú hai, nay đức chí tôn ban cho tôi một vật nhỏ mọn này mà chú hai cũng định lấy nốt chăng?’ Thượng hoàng cả cười nói: ‘Thế ra mày coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau ư?’ Khen ngợi hồi lâu, thượng hoàng liền cho Tĩnh Quốc cái áo ấy.”
Lời bàn: Sử chép chuyện các vị hoàng tử lo chém giết nhau để tranh đoạt ngôi vua thì nhiều, còn nhường nhau như anh em Quốc Khang thì quá hiếm. Vua Trần Thánh Tông trong chỗ vui đùa đã có lúc quên mất sự nhường nhịn, nhưng cái đáng nói là đã biết dừng lại khi có lời nhắc. Anh em hòa thuận đến thế. Thượng hoàng không vui sao được. Ôi! Ước gì tất cả các bậc quyền cao chức trọng của mọi thời đều biết dừng lại như Thánh Tông.
8. TRẦN THÁI TÔNG VỚI VIỆC KHEN THƯỞNG
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ vào cuối năm Đinh Tị (1257), Lê Tần là một vị tướng có tài, một nhà chiến lược xuất sắc, tác giả của kế hoạch tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, bình tĩnh tìm cơ hội mở trận tấn công quyết định khi điều kiện cho phép. Bởi công lao lớn ấy mà ông được đổi gọi là Lê Phụ Trần (ông người họ Lê có công giúp dập nhà Trần). Sách Đại Việt sứ kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 22a) chép rằng:
“Tháng 12, ngày 12 (năm Đinh Tị - 1257 - ND), tướng Nguyên là Ngột-lương-hợp-đải (tức Ngột-lương-hợp-thai, tên Mông Cổ là Uriangqadai - ND) xâm phạm Bình Lệ Nguyên (vùng Vĩnh Phúc ngày nay - ND). Vua tự mình đi đốc chiến, xông pha tên đạn. Quan quân hơi nao núng. Vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có Lê Phụ Trần (tức Lê Tần) là một mình một ngựa, ra vào trận giặc mà sắc mặt vẫn bình thản như không. Lúc ấy có người khuyên vua dừng lại để chỉ huy chiến đấu. Phụ Trần cố sức can vua:
- Bệ hạ làm vậy có khác gì đánh một trận dốc túi, thần nghĩ là hãy tạm nên lánh chúng, sao lại có thể dễ dàng tin lời người ta thế.
Bấy giờ, vua mới lui quân đóng ở sông Lô (từ Hà Giang về tới đoạn đổ vào sông Hồng - ND), Phụ Trần giữ phía sau. Giặc bắn loạn xạ, Phụ Trần lấy ván che tên đạn cho vua. Thế giặc rất mạnh, (vua) lại phải lui về giữ sông Thiên Mạc (tức khúc sông Hồng chảy qua xã Tân Châu, Châu Giang, Hưng Yên - ND), Phụ Trần theo vua bàn những việc cơ mật, rất ít người được biết những điều đó.”
Sau trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu (đầu dốc Hàng Than, Hà Nội - ND), quân ta đại thắng, triều Trần trở về thủ đô Thăng Long. Cũng sách trên (tờ 23b) chép rằng:
“Mùa xuân, tháng giêng ngày mồng một (tức năm Mậu Ngọ, 1258 - ND), vua ngự ra chính điện, trăm quan vào chầu. Trăm họ yên nghiệp như cũ. Vua định công ban tước (như sau): cho Lê Phụ Trần làm ngự sử đại phu, lại đem công chúa Chiêu Thánh gả cho. Vua nói:
- Trẫm không có khanh thì đâu lại có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để mãi được trọn vẹn.”
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây một lần nữa.”
Lời bàn: Lê Tần quả thật rất xứng với tên mới mà nhà Trần ban cho, rất xứng với lời khen ngợi chân tình của Thái Tông hoàng đế. Nói khác hơn, cách khen của vua Trần lúc này thật hay.
Phận làm tôi, lại là đấng trung thần, hoàng đế đã đem công chúa Chiêu Thánh mà gả cho, lẽ đâu Lê Phụ Trần dám từ chối. Lời Ngô Sĩ Liên chí lí lắm. Phàm là nữ nhi, ai chẳng muốn được thân êm tổ ấm. Chiêu Thánh mới bảy tuổi đã bị gả cho Trần Cảnh (tức hoàng đế Thái Tông), mười chín tuổi bị coi là không có con và buộc phải nhường địa vị hoàng hậu cho chị ruột là Thuận Thiên công chúa (trước là vợ lại đang mang thai với Trần Liễu, với Thái Tông lúc ấy, Thuận Thiên đang là vai chị dâu), để rồi đến năm này, lúc tròn bốn mươi tuổi, lại phải đi làm vợ Lê Phụ Trần. Hai mươi năm sau (1278), Chiêu Thánh mất, thọ sáu mươi tuổi, để lại cho Lê Phụ Trần hai người con một trai, một gái.
Hậu thế chẳng ai dám trách Lê Phụ Trần, chỉ tiếc cho vua Trần, rằng khen sao hay vậy mà thưởng sao lạ vậy. Trong đạo vợ chồng, Thái Tông chi mà bạc, bạc đến vậy, chi mà tệ, tệ đến vậy!