Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất - Phần III - Chương 3

Chấp mê

Tạm thời ném trách nhiệm và sứ mệnh sang một bên, Ngài không còn là vị vua lớn nhất của cung Potala, Ngài chỉ muốn làm lãng tử không tên trên đường phố Lhasa, làm tình lang tuấn tú của Dawa Dolma.

Có một số nơi mà đời này nhất định phải đi, chỉ có đích thân thăm thú non nước phương xa, khiến giấc mơ hư ảo trở thành chân thực sống động, mới không uổng công đến nhân gian này một chuyến. Nhưng khi chúng ta nhìn thấy tình cảnh trong mơ, phong cảnh tuyệt đẹp như vậy, liệu chúng ta có thể yên lặng không lời hay chăng? Há chẳng biết, mỗi hạt bụi trần rơi xuống đều sẽ quấy nhiễu nó. Khi chúng ta bước vào tu viện Tashilhunpo ở Shigatse Tây Tạng, nên hiểu rằng, từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch ngói, từng vị sư vị sãi ở đây, đều không nên bị làm phiền.

Màu sắc của mặt trời khi lặn thật sự rất đẹp, tu viện Tashilhunpo không biết được ai tráng lên một lớp màu đỏ rực, tựa như hoàng hôn đã uống say. Con đường lát đá được năm tháng mài bóng kia đã cất giữ biết bao nỗi lưỡng lự hoang mang và cố chấp của khách hành hương. Chúng ta nên tin rằng, ở đây trước sau đều có một lá kinh phướn phấp phới, chờ đợi bạn và tôi. Chỉ là đứng lặng hồi lâu trước điện Phật trang nghiêm, ngắm trời xanh mênh mông rộng lớn, nghe tiếng chuông đồng trong trẻo lay tỉnh ký ức kiếp trước, không biết những người đột nhập đất thánh này đi vào cảnh thiền, còn có thể bước ra hay không?

Ba trăm năm trước, vị Phật sống tên là Tsangyang Gyatso ấy thọ giới ở đây, một ngọn đèn bơ cũ kỹ của tu viện Tashilhunpo nhớ được tình cảnh năm đó. Tsangyang Gyatso trẻ tuổi ngồi trang nghiêm trước mặt Ban Thiền thứ 5 và mấy vị Thượng Sư, Ngài nhắm mắt niệm kinh, sắc mặt lạnh nhạt như băng. Mặc cho đại sư khuyên giải và hướng dẫn, vẻ bình tĩnh của Ngài khiến mọi người cảm thấy hết sức lúng túng và đáng tiếc. Thời khắc đó Ban Thiền thứ 5 hiểu rõ, đời người trăm dạng, dù bước vào cửa Phật, đông đảo sư sãi vẫn mội người có một duyên pháp và số mệnh riêng. Có người muốn danh lợi, có người muốn tình yêu, có người chỉ nguyện suốt đời ở bên Phật tổ, không mong không cầu. Ngắm vị Phật sống bình tĩnh trước mặt, Ban Thiền bắt đầu cảm thấy lời nói của mình thật yếu ớt, bất lực.

Tsangyang Gyatso rốt cuộc cũng quỳ bái dưới gối Ban Thiền thứ 5, dập đầu thật sâu, kiên định nói rằng: “Làm trái mệnh lệnh của Thượng Sư, thực sự hổ thẹn. Đệ tử biết rõ chân tướng trên đời đều là không, nhưng đệ tử đã không thể quay đầu, kính xin Thượng Sư thu hồi sa di đã thọ trước đây, để đệ tử hoàn tục.” Tsangyang Gyatso như một hồ nước phẳng lặng, dáng bình tĩnh và kiên định của Ngài, lại khiến cả tu viện Tashilhunpo lập tức sóng lớn cuồn cuộn, các sư theo đó đồng loạt quỳ xuống. Họ chẳng ai lường được, vị Phật sống trẻ tuổi này lại cam nguyện vứt bỏ địa vị chí cao vô thượng, chọn lưu lạc cõi tục, làm một người hát rong bình thường mua say trên đường phố.

Lẽ nào Ngài thật sự bị tình yêu làm mờ hai mắt, làm rối thần trí? Nếu không sao Ngài lại có thể chẳng chút do dự từ bỏ mọi thứ đang có, buông bỏ Phật tổ mà Ngài yêu kính, và cả những con dân ngày ngày về chầu Ngài. Phật lẽ nào không từ bi khoan dung? Nhưng Ngài rõ ràng quá đỗi ích kỷ, chỉ vì tình yêu cá nhân, vì một cô gái Qonggyai, bỏ rơi đông đảo chúng sinh. Ngài còn là vị Phật sống muôn dân kính mộ chăng? Song nhìn vào ánh mắt u uất của Ngài, vì sao chẳng ai nỡ trách tội Ngài? Đó là vì chẳng ai có thể giữ được lòng dạ sắt đá trước tình cảm chân thực. Lúc này tình ca của Tsangyang Gyatso đã từ cung Potala lan đến bầu trời tu viện Tashilhunpo. Các sư quỳ mãi không đứng dậy, mắt ngấn lệ, chẳng biết nên xử lý thế nào.

Tsangyang Gyatso yêu cầu trả giới sa di hoàn tục, quả thật khiến các sư có mặt ở đó kinh hãi, ánh mắt không sợ sệt của Ngài toát lên một vẻ quyết liệt thề không chịu thôi. Đúng thế, Ngài đã nhu nhược quá lâu, lần này Ngài không thể cho phép bản thân nhẫn nhịn tiếp nữa. Tạm thời ném trách nhiệm và sứ mệnh sang một bên, Ngài không còn là vị vua lớn nhất cung Potala, Ngài chỉ muốn làm lãng tử không tên trên đường phố Lhasa, làm tình lang tuấn tú của Dawa Dolma. Ngài muốn vì bản thân sống thật tốt một lần, đời người phải vui hết mình, phải rồi, vui hết mình.

Một thanh niên đã nếm trộm quả cấm, đứng trước những cám dỗ, không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ. Tsangyang Gyatso dùng mạng sống bảo vệ tình cảm, bị người đời vạch trần, lại đâu cam lòng cúi đầu nhận tội. Vì cấm kỵ, lòng Ngài càng thêm khao khát hướng đến tình cảm mãnh liệt và cám dỗ phong phú. Dù Ngài đối diện đao thương búa rìu, xông vào đầm rồng hang hổ, Ngài cũng vì nghĩa không chùn bước. Do đó Ngài đã có dũng khí chống đối Thượng Sư, đã có gan quay lưng với Phật tổ, đã có dự tính đương đầu với Sangye Gyatso.

Từng là một thiếu niên cô độc hoang mang, bị năm tháng thôi thúc trưởng thành, Ngài học được cách cự tuyệt, hiểu được thói ích kỷ. Nhưng chúng ta nên tin là Ngài vô tâm, Ngài vốn không có ý làm khó bất cứ ai, phụ lòng bất cứ ai, Ngài chẳng qua chỉ muốn làm chính mình. Nhưng mang linh hồn của kiếp trước trên người, Ngài phải trả giá suốt đời vì kiếp trước mà Ngài không muốn có, đây là trách nhiệm Ngài không thể chối bỏ. Khi chúng ta cho rằng Tsangyang Gyatso từ đây có thể giống như chim ưng, dang cánh bay lượn dưới trời xanh, số phận đã nói với Ngài một tiếng: Xin lỗi.

Từ khi Tsangyang Gyatso đến với nhân gian, cuộc đời Ngài đã viết sẵn sách phán quyết. Sangye Gyatso luôn nghiêm khắc quản thúc Ngài đột nhiên có chút lo sợ, e rằng đứa trẻ bướng bỉnh này sẽ chống cự đến chết. Nhưng y muốn Tsangyang Gyatso chết sao? Nếu Tsangyang Gyatso chết rồi, cục diện chính trị của Tây Tạng há chẳng danh chính ngôn thuận rơi vào tay y? Lúc đó, y có thể tiếp tục đi tìm một linh đồng chuyển thế, làm con rối của y. Nhưng Lha-bzang Khan chịu tha cho y chăng? Vua Đại Thanh có thể bỏ qua cho y chăng? Không, Sangye Gyatso nhất thiết buộc Tsangyang Gyatso ở lại, tiếp tục làm con cờ trong tay y, khi qua sông, y cần Ngài.

Lha-bzang Khan nghe được chuyện này, cũng vội vàng đuổi đến, y phải chặn đứng quyết định của Tsangyang Gyatso, vì y lo lắng Tsangyang Gyatso ra đi, sẽ khiến Sangye Gyatso có cơ hội để lợi dụng. Đối với Lha-bzang Khan, vị Phật sống hữu danh vô thực này cũng không phải là mục tiêu y thật sự muốn đối phó, cung tên y giương lên kia, là muốn nhắm chuẩn trái tim Sangye Gyatso bắn ra. Đến lúc đó muốn đánh bại Tsangyang Gyatso, đương nhiên dễ như trở bàn tay, không phí chút sức lực nào. Sự việc thật là buồn cười, Lha-bzang Khan chẳng phải dâng thư cho vua Khang Hy, tố cáo Tsangyang Gyatso là Phật sống giả mạo ư? Vì sao lúc này lại lo sợ Ngài kiên quyết ra đi, có thể thấy một người vì ham muốn quyền lực, không hề tiếc rẻ bất chấp thủ đoạn, nuốt lời lật lọng.

Chẳng ai biết vì lý do nào khiến Tsangyang Gyatso thu hồi lời Ngài nói ra ở tu viện Tashilhunpo. Là bởi nhẫn nhịn Sangye Gyatso? Là bởi e sợ quyền uy của Lha-bzang Khan? Bởi Ngài trước sau không bỏ được những người hành hương nườm nượp không dứt? Hay vì Sangye Gyatso đã đáp ứng Ngài điều kiện gì đó? Tóm lại, Tsangyang Gyatso tiếp tục ở lại trong cung Potala, làm Phật sống chí tôn của Ngài, tâm nguyện nhỏ nhoi không đáng kể kia rốt cuộc không thể thực hiện. Bộ áo sư màu đỏ kia khoác lên trên người, vì sao luôn khiến Ngài phiền lòng rối ý?

Tsangyang Gyatso mưu đồ chạy trốn trong mưa, nhưng đi một vòng, lại trở về chỗ cũ. Khách hành hương của cung Potala không mảy may giảm bớt vì tin đồn chốn phố chợ, họ không tin, không tin lời đơm đặt của Lha-bzang Khan, trong lòng họ, Tsangyang Gyatso chính là Phật sống của họ. Một vị tình tăng có thể viết ra những câu thơ tuyệt đẹp như thế thì sao có thể là Đạt Lai giả được? Ngài rõ ràng chính là hóa thân của Thần Phật, những câu thơ của Ngài chính là đống lửa rừng rực trong đêm tuyết, là đốm xanh ẩn hiện trong sa mạc, là tia sáng bừng nở trong tăm tối.

Những bài tình ca sinh động này được truyền xướng ngày càng vang dội trên đường phố Lhasa. Quán rượu nhỏ trên phố Barkhor, vì từng được một thanh niên phong lưu tên Dangsang Wangpo ghé thăm nên đêm đêm đông nghịt khách. Họ đều biết, chàng lãng tử chìm đắm ở quán rượu này chính là vị Phật sống Tsangyang Gyatso ở trong cung Potala. Nhưng điều này không hề ảnh hưởng lòng kính mến của họ đối với Ngài, ngược lại khiến họ cảm thấy, vị Phật này là từ bi nhất, vì Ngài không đứng ở nơi cao xa không với tới, đợi họ ngước đầu mong ngóng, mà thâm nhập dân gian, cùng họ hưởng thụ vẻ đẹp của khói lửa mịt mờ.

Hóa ra lòng người đều mềm yếu, khao khát tình cảm êm dịu và hạnh phúc như thế. Chúng ta xưa nay đều không muốn thấy thế giới này chìm đắm trong giết chóc, không muốn phải gánhh chịu nạn cướp bóc to lớn mà chiến tranh mang đến. Nếu mỗi một người đều có lòng lương thiện, yên vui với nếp sống bình dị, ở thành thị nhỏ thuộc về mình cười tươi như hoa nở, ca hát như oanh yến, thế thì đẹp biết bao! Có lẽ không cần chờ đến khi giong hết ngàn cánh buồm, nếm đủ trăm mùi vị, mới cam nguyện kề cận đồng quê non xanh nước biếc, sống những ngày tháng thanh đạm nhất. Lúc ấy, phải chăng có một cây bút nặng tình ghi lại bầu trời xanh thẳm, áng mây tinh khiết, và những câu chuyện êm đềm kia giữa xóm làng với xóm làng cổ xưa?

Tan vỡ

Đây chẳng phải là vô tình, mà là phép tắc sinh tồn, mỗi một ngày, đều có những người khác nhau đến đến đi đi, chúng ta không cần ghi nhớ quá nhiều, chỉ cần thuận hòa bên nhau, mỉm cười ly biệt.

Đeo tay nải lên, tôi vẫn ở phương xa, phương xa của tâm linh, phương xa của cảnh mộng. Tôi biết, mỗi tấc đất ở đây đều không thuộc về tôi, dù tôi rất muốn trân trọng, xem nó là đất nước của tôi, thành phố của tôi, nhưng rốt cuộc chỉ là mối tình đơn phương. Sau khi trời sáng, tôi sẽ phải rời khỏi nơi đây, rời khỏi quán rượu nhỏ trên phố Barkhor, mặt trời ngày mai không liên quan đến tôi, vì tôi là khách lạ chốn chân trời. Ở đây, tôi chẳng lưu lại bất cứ dấu vết nào, tôi không hy vọng sau này có một ngày, ai đó đến đây gọi ra tên họ của tôi, rồi vô tình trở thành người nhung nhớ trong cuộc đời anh ta. Tôi không bằng lòng, tôi là khách qua đường vội vã, tay áo phất phơ, tỏ rõ lòng ung dung hờ hững của tôi.

Khi không có người, năm tháng đã hoang phế ba trăm năm, biết bao lần oanh bay cỏ mọc, biết bao lần sen tuyết nở hoa, song người thật sự đã đi xa. Sau khi người rời xa, quán rượu vẫn mở cửa đón khách, vẫn cười nói vui vẻ, khách khứa ngồi đầy. Tuy nói đời người trống trải, nhưng kẻ sống vẫn cứ vui vẻ, chỉ có kẻ chết trầm mặc im lìm. Bi thương là ngắn ngủi, chúng ta có thể hoài niệm, nhưng chẳng ai vĩnh viễn chìm đắm vì nó. Đây chẳng phải là vô tình, mà là phép tắc sinh tồn, mỗi một ngày, đều có những người khác nhau đến đến đi đi, chúng ta không cần ghi nhớ quá nhiều, chỉ cần thuận hòa bên nhau, mỉm cười ly biệt.

Khi nào dắt nàng dạo bước hồng trần. Tôi như nghe thấy ba trăm năm trước Tsangyang Gyatso bất lực than thở với cô gái Qonggyai Dawa Dolma. Ngài nắm chặt tay nàng, thắm thiết nói: “Hãy tin ta, có một ngày nhất định sẽ dắt nàng dạo bước hồng trần”. Lúc đó, họ vẫn đang quấn quýt trong một gian phòng nhỏ ở quán rượu. Cuối cùng Ngài vẫn không cho nàng biết, Ngài là Phật sống chí tôn của cung Potala. Khi tin đồn xôn xao, nàng đã biết rõ, chàng trai giống như đứa trẻ nằm bên cạnh thật ra chính là Đức Phật nàng từng quỳ bái. Nàng im lặng, không nói. Chỉ nghĩ, yêu được ngày nào hay ngày ấy, vì nàng hiểu rõ hơn bất cứ ai, một ngày kia Ngài sẽ thực sự rời khỏi, đến vương quốc thuộc về Ngài, thế giới của Ngài. Nàng không hối hận vì cuộc gặp gỡ với Phật kiếp này. Chỉ là tâm nguyện được dắt nàng dạo bước hồng trần trong kiếp này còn có thể hoàn thành hay chăng?

Từ tu viện Tashilhunpo trở về cung Potala, Tsangyang Gyatso càng thêm trầm mặc. Mỗi ngày ngoài việc tụng niệm kinh văn, ngồi xếp bằng tham thiền, Ngài đứng ở khung cửa sổ nhỏ của tẩm điện nhìn về phương xa, ngắm núi đồi nhấp nhô, mây trắng nhởn nhơ. Trọn đời này, Ngài đã chẳng có bao nhiêu khát vọng, việc hoàn tục thất bại ở tu viện Tashilhunpo cũng đập nát giấc mơ cuối cùng của Ngài. Biết bao người tỉnh mộng hồng trần, hy vọng gõ mở cửa Phật, từ đó thanh đạm qua ngày, cầm hoa mỉm cười, nhặt lá hoan hỉ. Mà Ngài lại muốn chạy trốn khỏi cũi tù của cõi Phật, sống cuộc sống chăn thả cùng người thân nơi quê nhà. Ngài không nén được nhớ nhung người mẹ đã cho Ngài bú mớm, bạn bè chơi đùa với Ngài, và cả cô gái Ngài đã từng ôm hôn. Quá xa xôi rồi, xa xôi đến nỗi tưởng như đã cách mấy đời, mọi thứ trước mắt đều chứng thực Ngài chẳng có gì cả.

Tsangyang Gyatso rốt cuộc chỉ là một quân cờ hết sức quan trọng giữa Sangye Gyatso và Lha-bzang Khan, Ngài kẹt giữa cuộc đấu tranh của họ, phiền muộn đến gần như ngạt thở. Mỗi ngày, Ngài đều chờ cơ hội, hy vọng mình có thể chạy khỏi cung Potala, đến quán rượu nhỏ Makye Ame trong thành Lhasa. Tsangyang Gyatso tin rằng, ý trung nhân của Ngài vẫn sẽ chờ Ngài trở về chốn đó, nàng sẽ không dễ tin lời đồn của thế tục, họ từng thề non hẹn biển, đã nói cùng dắt tay nhau dạo bước hồng trần. Nhưng Ngài rốt cuộc vẫn phải phụ nàng, không làm được lãng tử đường phố, Ngài đau lòng khôn xiết.

Đêm đó, Tsangyang Gyatso yêu cầu Sangye Gyatso cho phép Ngài tới phố Barkhor của Lhasa một lần nữa, vẻn vẹn một lần nữa thôi, rồi sau này Ngài sẽ chỉ kề cận bên Phật. Sangye Gyatso đáp ứng thỉnh cầu của Ngài, y muốn Ngài triệt để cắt đứt si niệm, từ đó an lòng sống trong cung Potala, tiếp tục nghe theo sự sắp xếp của y. Tsangyang Gyatso không biết rằng, trước đó không lâu, Sangye Gyatso đã phái người bí mật đến quán rượu nhỏ, đưa Dawa Dolma về Qonggyai. Ra lệnh cha nàng tìm kiếm đối tượng cho nàng, nhanh chóng gả đi, nếu không sẽ đem đến vận rủi cho cả gia tộc. Cách làm của Sangye Gyatso chính là nhằm triệt để đập tan hy vọng cuối cùng ở hồng trần của Tsangyang Gyatso, không phải do y tàn nhẫn, mà là cục thế ép buộc. Đao kiếm của Lha-bzang Khan lúc nào cũng có thể đâm vào trái tim họ, mọi từ bi và lơi lỏng đều là vô trách nhiệm với chính bản thân.

Mặt trời lặn xuống núi phía Tây, sắc chiều âm u bao phủ bốn bề, Tsangyang Gyatso cởi áo sư, thay y phục hoa lệ đã lâu không mặc, đội mái tóc giả lên. Ngài trong gương vẫn tuấn tú như thế, nhưng gầy guộc hơn ngày trước rất nhiều, thần sắc của Ngài có mong đợi, có vui mừng, có sợ hãi, cũng có buồn rầu. Cuối cùng Ngài cũng có thể gặp cô gái ngày mong đêm nhớ, song lần gặp gỡ này thật sự sẽ là vĩnh biệt sao? Thề ước của quá khứ, Ngài nên lấy gì để thực hiện? Không thể nghĩ nữa, lúc này Tsangyang Gyatso chỉ muốn nhanh chóng xuống núi, đến quán rượu nhỏ Makye Ame, cùng người đẹp Qonggyai uống thỏa thích. Chỉ cần một đêm khuynh thành, một đêm là được.

Màn đêm xưa nay vẫn nghiêng thành như thế, chỉ về đêm con người mới có thể buông thả bản thân, không cần đeo đẳng gánh nặng vì hành vi cuồng vọng của mình. Ban ngày là dành cho những người có chuẩn bị, ban đêm thì là để linh hồn được phóng túng mặc ý. Biết bao khách cầm ca trẻ tuổi trong thành Lhasa như nước triều đổ về nơi này, uống rượu nếp nồng đượm, hát những bài hát tình ca cảm động, chỉ để một ngày nào đó về già, có thể nói với người khác rằng, tuổi thanh xuân của tôi đã trôi qua không hối tiếc.

Bước chân vào quán rượu nhỏ, Tsangyang Gyatso trông thấy một đám thanh niên đang vui tràn, ngâm nga bài hát mình viết. Tất cả quang ảnh như hôm qua hiện lại, dù họ mê đắm trong hoan lạc của mình, vẫn có người nhìn thấy lãng tử phong lưu Dangsang Wangpo bước đến. Lúc này họ đã biết thân phận của Dangsang Wangpo, hiểu rõ Ngài chính là Phật sống tôn quý của cung Potala. Họ hướng ánh mắt nhiệt liệt về phía Ngài, nhưng không ai quỳ bái Ngài, ở nơi này, Ngài chỉ là một lãng tử, là khách qua đường cùng họ duy hý nhân sinh. Những người trẻ tuổi xem đời như vở kịch này hoàn toàn không muốn để ý tới thân phận của ai, điều họ cần chỉ là niềm khoan khoái đêm nay có rượu, đêm nay say.

Không nhìn thấy bóng dáng xinh đẹp của Dawa Dolma, bóng dáng khiến Ngài hồn bướm mơ tiên ấy, vì sao đêm nay không xuất hiện nữa? Bà chủ quán cũng biết thân phận chân thực của Dangsang Wangpo, nhưng bà không vạch trần, chỉ nhẹ nhàng nói cho Ngài biết một tin tức. Dawa Dolma của Ngài sau này cũng sẽ không trở lại nữa, nửa tháng trước, nàng bị người ta đưa đi khỏi quán rượu, rất đỗi gấp gáp, không để lại lời nhắn nhủ nào. Mấy ngày trước, nghe người ta đồn, cha Dawa Dolma đã tìm được đối tượng cho nàng, không lâu sau, nàng sẽ làm cô dâu của người khác.

Cảnh ngộ tương tự lại xảy ra với cùng một người, lần này Tsangyang Gyatso vô cùng bình tĩnh, vì Ngài biết dù trời long đất lở cũng không thể thay đổi được kết cục. Mấy năm nay, Ngài đã học cách ẩn nhẫn, chỉ là trái tim bị tình yêu cứa đứt, chảy máu không ngừng, Ngài không nỡ chạm đến. Ngài hồn bay phách lạc lang thang trên đường phố Lhasa, đêm nay, Ngài là một lãng tử chân chính, ôm bầu tâm sự đau lòng đứt ruột, không tỏ cùng ai. Ngài là Phật sống, không thể quang minh chính đại đi vội tới Qonggyai, đưa Dawa Dolma trốn đến chân trời. Sau khi trời sáng, Ngài sẽ mang vết thương trở về cung Potala, từ nay về sau, ngày đêm chặm máu tự trị thương.

Ngài vẫn nhớ lời bà chủ quán, từ khi Ngài rời khỏi quán rượu, trên phố đã có quá nhiều tin đồn về Ngài. Nhưng Dawa Dolma mỗi ngày vẫn si dại chờ đợi Ngài, nàng vững tin, tình lang của nàng sẽ quay trở lại, sẽ cùng nàng nắm tay dạo bước hồng trần. Lời thề đã thành tuyết bay lả tả, gặp nước liền tan. Không biết trên đời này vì sao lại có nhiều tên đao phủ như thế, vì sao cứ tàn nhẫn vung đao chặt đứt tình duyên vốn tốt đẹp như thế. Lòng chúng thật sự không đau xót chút nào ư? Gió lạnh lướt qua, Tsangyang Gyatso phát giác mình đã đầm đìa nước mắt.

Ong sinh ra sớm quá,

Hoa nở rộ muộn rồi.

Gặp nhau thì đã trễ,

Duyên phận bạc như vôi.

Mặt trời chiếu bốn châu,

Vòng quanh núi, trở lại.

Còn người ta yêu thương,

Biền biệt ra đi mãi.

Người như bến ngóng đợi,

Lòng như phướn bay tung.

Tên ta và người ấy,

Sách vận mệnh ghi chung.

Không thể trách tội, chỉ than duyên bạc. Cứ xem là một chuyện ngoài ý muốn trong đời người, yêu nhau ngoài ý muốn, biệt ly ngoài ý muốn. Nhưng trên quyển sách sổ mệnh chắc chắn sẽ có một góc viết song song tên của họ, dù có ngày họ gặp nhau hay không, tên của Dangsang Wangpo và Dawa Dolma sẽ vĩnh viễn ở bên nhau, ở bên nhau.