Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất - Phần IV - Chương 3

Thảm kịch

Ngài xưa nay không hy vọng bản thân suốt đời ru rú trong cung Potala, làm một vị Phật sống hữu danh vô thực, trở thành con cờ người khác mặc ý sắp đặt. Do đó mới năm lần bảy lượt tùy tiện làm càn, gây ra thảm kịch không thể vãn hồi này.

Có một số nơi nên được con người vĩnh viễn ghi nhớ, dù lưu truyền bao nhiêu năm tháng, những câu chuyện đã từng xảy ra vẫn rõ mồn một như hiển hiện trước mắt, phảng phất như mới hôm qua. Cũng có người nói, đời người vốn dĩ đã có quá nhiều gánh nặng, chúng ta nên học cách lãng quên. Một người không nên dễ dàng hứa hẹn điều gì, đã hứa thì phải làm được. Dù đối với một chiếc lá cây, một con sâu cái kiến, một làn khói lửa, cũng phải có sự trình bày. Người và người vốn dĩ khác nhau, chúng ta không thể lấy tiêu chuẩn của mình để đo lường người khác, cũng không thể lấy phương thức sống của người khác làm quy tắc của mình.

Khó rời bỏ cuối cùng cũng phải rời bỏ. Ba trăm năm trước, tu viện Drepung của Lhasa cử hành một cuộc biệt ly đau đớn, nung nấu một trận gió bão vô tình. Tu viện Drepung là một trong sáu tu viện lớn của Hoàng Giáo[1], quy mô hoành tráng, quần thể kiến trúc màu trắng nối tiếp nhau san sát trải đầy sườn núi, nên gọi là Drepung, tượng trưng cho sự phồn vinh. Tu viện Drepung xinh dự là tu viện lớn nhất trên toàn thế giới, số lượng sư sãi lúc đông nhất lên tới trên mười ngàn người. Đứng yên hồi lâu ở bất cứ một phương vị nào của tu viện Drepung, đều có thể nhìn thấy núi non trùng điệp nhấp nhô và những áng mây vĩnh viễn không tan. Ngày nay nó yên tĩnh tọa lạc trên mảnh đất mênh mông thánh khiết của cao nguyên, có bao nhiêu người còn nhớ được ba trăm năm trước nó cũng từng trải qua một cuộc tranh đấu gió tanh mưa máu?

[1] Sáu tu viện lớn của Hoàng Giáo: Drepung, Sera, Ganden (Lhasa, Khu tự trị Tây Tạng), Tashilhunpo (Shigatse, Khu tự trị Tây Tạng), Kumbum (Tây Ninh, Thanh Hải), Labrang (Cam Túc).

Mãi đến hôm nay, người đến tu viện Drepung lễ bái vẫn nườm nượp không ngớt, họ đều chỉ là một số khách hành hương bình thường, đeo tay nải, xoay kinh luân, mục đích là triều bái Phật tổ trang nghiêm. Họ từ nhiều nơi khác nhau đến thành cổ Lhasa, mang theo ước hẹn của kiếp trước, không hối hận ở kiếp này. Ba trăm năm trước, dòng người như nước triều tuôn chảy, nhưng họ không phải đến lạy Phật cầu nguyện, mà là vì hăng hái quên mình giải cứu vị Phật sống trẻ tuổi Tsangyang Gyatso. Chẳng ai muốn để một miền đất thánh khiết chịu sự tiêm nhiễm vẩn đục của cõi trần, chẳng ai không mong yên bình thanh tịnh mà lại muốn bốn bề chiến tranh.

Tsangyang Gyatso, vị Phật sống chí cao vô thượng của cung Potala năm xưa, trong khoảnh khắc trở thành tên tù dưới thềm. Cảnh ngộ kịch tính của Ngài khiến vô số dân chúng nảy sinh cảm khái họa phúc khó lường. Họ là những người tin ở số mệnh, tin tưởng cỏ cây bò cừu nơi này đều có chuyển thế luân hồi, đều có thể biết kiếp trước đời này. Nhưng họ không tin vị Phật sống họ kính yêu ủng hộ lại là giả, không tin một người trẻ tuổi chí tình chí tính lại phải gặp biến số to lớn dường ấy.

Điều duy nhất họ có thể làm được, chính là hết sức giúp Tsangyang Gyatso thoát khỏi kiếp nạn này, chỉ cần không rơi vào tay Lha-bzang Khan, thì có thể không phải chịu trừng phạt của vua Khang Hy. Họ vốn là những mục dân tự do nhất trên thảo nguyên, không quan tâm chính sự nước nhà, không hóng hớt chuyện phải trái trên đời, chỉ giữ tín ngưỡng của mình, quỳ bái Phật sống họ nhận định. Chẳng lẽ điều này cũng là sai ư? Vì sao luôn có nhiều người muốn khiêu khích phân tranh, vì một địa vị hư ảo, cam nguyện khuấy nát bình yên của họ?

Hôm ấy ánh nắng thật là rực rỡ, nhưng dân chúng đến tiễn đưa trong gió lại cảm thấy lạnh lẽo thấu xương. Khi sứ giả của Khang Hy và quân đội Lha-bzang Khan áp giải Tsangyang Gyatso từ cung Potala ra, quanh co đi đến tu viện Drepung, một hành động mưu tính từ lâu đã triển khai trong chớp mắt. Mấy mươi vị sư sãi thừa lúc quân lính không phòng bị, nhanh chóng xông lên phía trước cứu Tsangyang Gyatso từ trong đội ngũ của chúng. Tsangyang Gyatso còn chưa rõ chuyện gì xảy ra, cửa tu viện Drepung đã đóng chặt. Một số sư sãi còn lại và tín đồ lập tức chắn ngay trước cửa, con đường trước tu viện Drepung kẹt cứng như nêm cối.

Trong tu viện Drepung, Tsangyang Gyatso từ trong tình cảnh kinh động tâm phách vừa rồi hoàn hồn trở lại, Ngài vô cùng cảm động trước sự ủng hộ của các sư sãi đối với Ngài. Nhưng Ngài hiểu rõ hơn bất cứ ai, các sư chống lại Lha-bzang Khan chẳng khác nào châu chấu đá xe. Sứ giả vua Đại Thanh phái đến và quân đội rầm rộ của Lha-bzang Khan làm sao có thể buông tha cho Ngài, các sư bất chấp hậu quả giải cứu Ngài như thế, sẽ đem đến tổn thương cho chính bản thân họ. Lha-bzang Khan chỉ cần cho họ một tội danh cướp đi khâm phạm, thì có thể giết chết dân chúng cản đường ngay tại chỗ mà không bị quy vào tội giết người.

Quân Mông Cổ ngoài tu viện đằng đằng sát khí, có xu thế dùng vũ lực xông lên, nhưng mấy trăm vị võ tăng đứng sừng sững trước cửa tu viện, đông đảo dân chúng cũng vây quanh, không chịu nhượng bộ mảy may. Quân đội võ trang toàn bộ của Lha-bzang Khan đã bao vây vòng trong vòng ngoài tu viện Drepung, giằng co như thế nửa ngày, một trận tranh đoạt đẫm máu ngay lập tức sẽ diễn ra. Lha-bzang Khan phẫn nộ đã không còn nhẫn nại nữa, lệnh cho quân đội dùng vũ lực xông tới cửa tu viện, nhiều tín đồ bị chúng giẫm đạp dưới chân, đao kiếm vô tình vung lên chém tới tấp vào những người vô tội này.

Một trận chiến đẫm máu diễn ra ở tu viện thần thánh trang nghiêm, so với trong thế tục càng tàn khốc hơn, càng bi tráng hơn. Tsangyang Gyatso không nỡ nhìn thấy những con dân vô tội ủng hộ Ngài phải chết dưới đao kiếm của binh sĩ Lha-bzang Khan nữa. Không muốn đời này của mình thêm nhiều tội nghiệt nữa. Ngài đi ra khỏi tu viện, bó tay chịu trói. Nhưng nhìn thấy máu tươi tuôn chảy như suối, Ngài hiểu ra, rốt cuộc vẫn là quá muộn. Chẳng có một cuộc đấu tranh nào diễn ra mà không phải đạp trên máu tươi và hài cốt. Quay đầu nhìn cung điện hoa lệ, vương vị sáng chói trong lịch sử, đều ẩn giấu quá nhiều bi kịch và đau xót.

Ở âm tào địa phủ,

Diêm vương có tấm kính.

Người phải trái không rõ,

Kính thiện ác phân minh.

Xin Hộ pháp Kim Cương

Khắp trên trời dưới đất

Trổ pháp lực thần thông,

Diệt kẻ thù đạo Phật.

Chẳng lẽ nhân gian này thật sự có một tấm gương sáng, có thể soi thấy phải trái thiện ác, có thể nhìn được rõ ràng cảnh đời vẩn đục, lòng người lãnh đạm? Gương sáng phủ bụi, lòng người tráo trở, quá nhiều dối trá và lừa gạt, quá nhiều xấu xa và phản bội, cần chúng ta ngăn chặn. Phật phù hộ chúng sinh, chúng sinh hướng đến Phật. Nếu mỗi người đều ít một chút dục vọng, nhiều một chút ý tốt, có lẽ thế gian này sẽ không có nhiều giết chóc như thế. Trước thói ngu muội và tàn nhẫn của người đời, khi Phật không thể khuyên ngăn thì chỉ còn biết than thở. Lẽ nào Phật thật sự có thể hiển linh, dùng pháp lực thần thông của Người để vỗ về người hiền, diệt trừ kẻ dữ?

Khi Tsangyang Gyatso bị áp giải đi, các sư hô lớn Phật hiệu, rơi lệ ròng ròng; tín đồ cúi đầu gào khóc, kinh động trời đất. Ngài không quay đầu, đó là vì Ngài không nỡ để họ nhìn thấy trong mắt Ngài đang rưng rưng lệ. Bóng lưng ấy là một điềm dữ, có nghĩa Tsangyang Gyatso lần này đi kinh thành, sẽ vĩnh viễn chẳng có ngày về. Đột nhiên tôi cảm thấy Tsangyang Gyatso chính là một đóa sen mọc rễ trong bùn loãng, từ kiếp trước được bứng trồng đến kiếp này, lại từ kiếp này dời đến một góc khuất không ai hay biết nào đó.

Năm xưa, những tín đồ kia vô cùng nhiệt liệt đón Ngài đến, giờ đây lại vô cùng bi tráng tiễn Ngài đi. Ngài từng rực rỡ như sao sớm, dù là đêm đen cũng không che lấp nổi ánh sáng của Ngài. Ngày nay Ngài rơi xuống trần ai, đón nhận số phận bị năm tháng chôn vùi. Ngài xưa nay không hy vọng bản thân suốt đời ru rú trong cung Potala, làm một vị Phật sống hữu danh vô thực, trở thành con cờ người khác mặc ý sắp đặt. Do đó mới năm lần bảy lượt tùy tiện làm càn, gây ra thảm kịch không thể vãn hồi này.

Trong mỗi vở kịch của đời người đều ẩn giấu một kết cuộc, chúng ta tự biên tự diễn tình tiết kịch, cố chấp cho rằng có thể theo ý tưởng ban đầu diễn đến cuối cùng, thật ra người bị lừa dối nhiều nhất chính là bản thân. Tsangyang Gyatso cho rằng mình không để lại thứ gì, cho rằng mình ra đi như vậy thì có thể từ đây không còn tin tức. Chỉ mong hồn phách mình quanh quẩn trên mảnh đất đã nuôi dưỡng Ngài, khẩn cầu nhân dân Tây Tạng triệt để lãng quên Ngài. Ngài không biết, tình ca của Ngài giống như hương lửa trong cung Potala, mãi mãi không tắt.

Tsangyang Gyatso chưa từng rời khỏi cao nguyên, sớm đã nghe nói kinh thành phồn hoa như gấm. Mảnh non sông ấy từng thai nghén vô số câu chuyện anh hùng đuổi hươu Trung Nguyên[2], máu biếc cát vàng. Còn có phương Nam thanh nhã, ấp ủ nhiều truyền thuyết cảm động về tình yêu trai gái quyến luyến không rời. Ngài từng khao khát phóng đãng, hướng đến phiêu bạt, cùng ý trung nhân nắm tay dạo bước nhân gian, giờ đây số phận thỏa mãn tâm nguyện của Ngài, chỉ có điều bên mình thiếu đi một má hồng. Nhìn về phương xa, tưởng tượng bờ bên kia mà mình chưa từng đến, không hiểu nó cất giữ khói lửa ra sao? Khói lửa vốn nên thuộc về phàm trần đó vốn không liên quan với Ngài, giờ đây cần Ngài một mình nếm trải.

[2] Sử ký của Tư Mã Thiên viết: “Tần mất con hươu, thiên hạ cùng săn đuổi”, sau dùng để chỉ việc tranh giành thiên hạ. “Đuổi hươu Trung Nguyên” nghĩa là tranh đoạt vùng Trung Nguyên.

Ngài không hề cô độc, sư sãi tiễn biệt Ngài, tín đồ tiễn biệt Ngài. Nhưng vì sao bước chân lại nặng nề như thế, chẳng phải là vội đi đến chỗ chết hay sao? Ngài nên không sợ, vua Đại Thanh có thể làm gì được Ngài? Người gọi là Khang Hy ấy, lẽ nào chưa từng có nỗi bi ai tương tự - bi ai của vương giả. Đó là một tầm cao cách biệt với đời, bất cứ một người bình thường nào cũng không thể cảm nhận được nỗi tịch liêu và hoang vu trong đó.

Tsangyang Gyatso xem cuộc đời mình là một quyển sách kinh mà người khác đọc không hiểu, Ngài luôn lạnh lùng lật xem, những ngày không biết nguyên nhân ấy, hoảng hốt mà tỉnh táo, mơ hồ mà rõ ràng. Sách kinh không phải là thơ tình, không có vần luật, không có bằng trắc, không có đau buồn, cũng không có thương cảm. Chỉ có một đoạn nhỏ ý thiền, một đoạn lớn trống trải hoang vu. Khiến người hồ đồ càng thêm hồ đồ, người tỉnh táo càng thêm tỉnh táo. Mà Tsangyang Gyatso thì là một người nửa tỉnh nửa mê.

Năm tháng có tình, đời thừa không bến. Đây là hành trình lần thứ hai trong đời Tsangyang Gyatso. Ngài từng từ địa phương nhỏ bé Monyu chốn quê nhà, mang theo tâm sự ngây ngô chẳng biết gì đến Lhasa, đón nhận thân phận cao nhất Phật ban cho. Hôm nay lại từ cung Potala lưu đày đến kinh thành xa xôi, chuẩn bị đón nhận sự trừng phạt nghiêm khắc nhất của vua Đại Thanh. Đều nói Phật sống có linh tính thông thấu nhất thế gian, Ngài đúng ra có thể biết trước ngày mai của mình. Nhưng Tsangyang Gyatso đeo một thân xiềng xích, nhìn phương xa thăm thẳm, cảm thấy bản thân thật sự là một cây bồ đề lạc lối, giống như một câu đố, thê lương đi lại giữa thế gian.

Thề ước

Tình ca của Ngài quanh quẩn trên cao nguyên, như áng mây đầy trời, có làn khói không dứt. Kinh phướn phấp phới trong gió, như đang vẫy tay, cũng là đang kêu gọi. Còn có những kinh luân chuyển động mãi không ngừng, kể lể những lời người đời nghe mãi không hiểu.

Dường như mọi câu chuyện đều không thiếu được một đoạn ly biệt. Nếu nói bắt đầu là vì kết thúc, thế thì gặp gỡ là để biệt ly. Trong mắt nhiều người, ly biệt nên mang một vẻ đẹp thê lương thương cảm, nhưng tôi cho rằng, có nhiều ly biệt lại đem đến cho người cảm giác như trút bỏ gánh nặng. Vì không phải cứ sống với nhau là khiến người người vui vẻ, thời gian lâu rồi thường sinh ra lòng chán ngán. Lúc đó, điều mong mỏi chính là ly biệt, dù ngắn ngủi hay lâu dài, chỉ nguyện ý xa nhau. Chưa từng nghĩ, vừa xa cách đã là một đời. Luôn muốn tìm cớ gặp lại, nhưng vẫn bị năm tháng phũ phàng, từ nay về sau, không còn gặp nhau được nữa.

“Trường đình ngoại, cổ đạo biên, phương thảo bích liên thiên[1]…” Biệt ly trong tưởng tượng nên là như vậy, đường cũ lưu luyến, trường đình tiễn biệt, người ra đi kéo vạt áo lau nước mắt, cảm thương vô hạn. “Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn, tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn[2].” Hoặc là sông Dịch tiễn biệt, thê lương bất tận. Còn tôi luôn nghĩ đến tình cảnh ba trăm năm trước khi Tsangyang Gyatso rời đất tuyết cao nguyên, mây núi mênh mông, gió trăng lồng lộng, thì nên là một vẻ hoang vắng thế nào? Vạn vật đều đang tiễn biệt Ngài, rơi lệ vì Ngài, cảnh tượng này so với tiễn biệt ở trường đình và sông Dịch càng làm cảm động lòng người, càng bi ai thê lương.

[1] Ngoài trường đình, bên đường cũ, cỏ thơm xanh tận chân trời. Đây là ca khúc “Tống biệt”, nhạc John Pond Ordway (Mỹ), lời Lý Thúc Đồng (Trung Quốc).

[2] Gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh ghê. Tráng sĩ ra đi chừ, không bao giờ về. Đây là hai câu thơ Kinh Kha ứng tác với các bạn đi tiễn ở sông Dịch, trước khi sang Tần hành thích vua Tần.

Lần này Ngài đi, giống như Kinh Kha hành thích vua Tần, vĩnh viễn không trở lại. Không ai có thể đoán trước được số mệnh tương lai của Ngài, ngay cả bản thân Ngài, đó cũng là một điều khó đoán, có thể là khởi đầu mới trong cuộc đời Ngài, có lẽ chỉ là kết thúc. Tình ca của Ngài quanh quẩn trên cao nguyên, như áng mây đầy trời, vương làn khói không dứt. Kinh phướn phấp phới trong gió, như đang vẫy tay, cũng là đang kêu gọi. Còn có những kinh luân chuyển động mãi không ngừng, kể lể những lời người đời nghe không hiểu. Có chúc phúc, có bịn rịn, có cảm thán…

Sau khi Ngài rời khỏi cung Potala, con chó vàng già từng giữ bí mật cho Phật sống cô độc chết đi. Không ai biết nó từng có lời hẹn với Đạt Lai thứ 6; những ngày ấy, chó vàng trung thành canh giữ ở cửa bên cung Potala, đợi người chủ của nó trở về trước bình minh. Nếu không phải trận tuyết lớn kia đã tiết lộ bí mật Tsangyang Gyatso một mình ra ngoài cung, con chó vàng già đến chết cũng sẽ bảo vệ người chủ trẻ tuổi. Chuyện trên đời thật sự là nhân quả liên kết với nhau, Phật sống rời khỏi cung điện đẹp đẽ sang trọng thuộc về Ngài, con chó vàng già giữ cửa dùng cái chết để chứng minh lòng kiên trinh. Chỉ là tất cả quá trình này, đều lặng lẽ âm thầm, không ai hay biết.

Năm xưa Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso dẫn mấy ngàn sư sãi, rầm rầm rộ rộ từ Lhasa xuất phát, đến thành Bắc Kinh, được vua Đại Thanh tiếp đãi với lễ tiết tối cao. Giờ đây cũng cùng là Đạt Lai Lạt Ma, nhưng Tsangyang Gyatso lại đeo hình cụ, bị áp giải về kinh. Một vị Phật sống, một tên tù phạm, giống như một vở hý kịch bi ai, một màn luân hồi buồn cười. Đạt Lai thứ 6 chẳng phải là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5 sao? Nếu linh hồn thật sự có thể không chết, với cống hiến của Lobsang Gyatso đối với chính giáo Tây Tạng, kiếp này sao phải chịu dày vò như thế? Chúng ta không nên hoài nghi như Lha-bzang Khan, chúng ta nên giống tất cả tín đồ Tây Tạng, tin tưởng Tsangyang Gyatso là Phật sống thật, vì Ngài có một trái tim còn từ bi đa tình hơn Phật. Ngài là lạc lối bồ đề, Phật sẽ không vì Ngài lạc lối mà lưu đày Ngài.

Ở Tây Tạng có một truyền thuyết mỹ lệ thế này, sau khi Tsangyang Gyatso đi khỏi, tất cả các cô gái từng say đắm Ngài trong thành Lhasa đều sơn phòng ốc nhà mình thành màu vàng, làm kỷ niệm vĩnh viễn. Các cô mong mỏi, biết đâu Tsangyang Gyatso sẽ bước ra từ mảng sắc vàng tươi ấm áp này, mỉm cười với họ, uống rượu ca hát cùng họ, ôm hôn họ. Truyền thuyết thật là đẹp đẽ thắm thiết, nếu tôi sống ở thành Lhasa, cũng sẽ sơn nhà mình thành màu vàng, không vì kết tình duyên với Tsangyang Gyatso, chỉ vì một câu chuyện sinh động đến nỗi có thể khiến người rơi lệ.

Ba trăm năm đã qua, rất nhiều ngôi nhà nhỏ màu vàng tươi trong truyền thuyết sớm đã không còn tồn tại nữa, thậm chí không hề để lại một dấu vết nào. Nhưng tôi tin truyền thuyết là thật, các cô gái nhất định sẽ dùng phương thức si tình để hoài niệm Dangsang Wangpo, tình lang đẹp nhất trong thành Lhasa. Ngày nay chỉ còn lại quán rượu nhỏ tên Makye Ame trên phố Barkhor, ngôi nhà nhỏ không chút bắt mắt, nhưng mỗi ngày khi đèn hoa vừa thắp lên là khách khứa ra vào tấp nập. Họ đến từ các thành phố khác nhau, mang theo bụi đất của các địa phương khác nhau, tín ngưỡng khác nhau, chỉ vì một tâm tình giống nhau. Là thơ tình của Tsangyang Gyatso đã cảm động họ, là tình yêu của Ngài đã lay động họ, do đó bằng lòng vì một truyền thuyết, đến đây nhớ lại một quãng thời gian đã trôi qua.

Thật ra thực sự có thể tìm được những gì? Nói cách khác, quán rượu nhỏ này quả đúng có lưu lại vết tích của họ chăng? Chúng ta không hề muốn dối mình dối người, nhưng thà rằng tin tưởng tất cả đều từng tồn tại, nhiều người cần dựa vào những giấc mơ tươi đẹp này để điểm tô đời sống cay đắng vô vị. Do đó mới có rất nhiều người bất chấp tất cả đeo tay nải lên hối hả đi xa, chỉ vì những câu chuyện và truyền thuyết không thể xác định. Hiện thực khiến con người con người có quá nhiều gánh nặng, không ai cam nguyện kéo kén tự buộc mình, dù vì một giấc mơ hư vô đi đến chân trời cũng không hối hận. Mê say tạm thời không có nghĩa sẽ say hoài không tỉnh, mỗi người chỉ xây đắp trong lòng một chốn thế ngoại đào nguyên nhỏ hẹp, không bị thế giới bên ngoài quấy rầy, có thể yên ổn thanh tịnh.

Trăng mùng Ba nhợt nhạt,

Tỏa sáng hết mức rồi.

Xin nàng trao thề ước,

Như trăng rằm, cho tôi.

Người tình bị trộm đi,

Ta xin xăm bói quẻ.

Nàng hồn nhiên đẹp đẽ,

Ta trong mơ chẳng quên.

Những bài tình ca đó vẫn còn, quán rượu nhỏ Makye Ame vẫn còn, nhưng chàng lãng tử tên Dangsang Wangpo đã đi đâu? Người đẹp Qonggyai Dawa Dolma đã đi đâu? Về tung tích của Dawa Dolma, có lẽ chúng ta nên có sự trình bày, người con gái Tsangyang Gyatso từng yêu ghi lòng tạc dạ, là nàng, đã thay đổi số phận cả đời của Tsangyang Gyatso. Nàng tuy quan trọng, nhưng không có Dawa Dolma, Tsangyang Gyatso cũng sẽ gặp gỡ cô gái khác trên đường phố Lhasa theo cách ấy, chỉ là tư vị khác nhau, mức độ yêu khác nhau. Tật đa tình của Ngài là bẩm sinh, những bài thơ tình ấy lưu giữ trong ký ức của Ngài, chỉ cần vừa chạm đến trái tim mềm yếu, liền ào ạt tuôn ra.

Bà chủ quán rượu nhỏ từng nói cho Dangsang Wangpo biết, Dawa Dolma, cô gái Qonggyai Ngài yêu bị cha nàng đưa về quê, định hôn sự cho nàng, làm cô dâu của người khác. Mà Tsangyang Gyatso cũng vì chuyện này đứt từng đoạn ruột, Dawa Dolma ra đi, đã dập tắt hy vọng cuối cùng của Ngài ở phàm trần. Nhưng Dawa Dolma thật sự bị gả cho người khác chăng? Nàng có phản bội lời thề năm xưa với Dangsang Wangpo không? Không, cũng như cô gái năm xưa Tsangyang Gyatso từng yêu ở Monyu, nàng cũng không bội bạc Ngài. Cô gái sống ở địa phương nhỏ Monyu ấy, đến sau này sống hay chết chẳng ai biết, nhưng chúng ta có thể đoán chắc, suốt đời nàng đều không thể hạnh phúc. Nhưng nàng gửi thân nơi làng quê nhỏ bé dân tình chất phác, đâu thể làm chuyện gì trái với đạo nghĩa, dù ngày tháng khổ sở thế nào, nàng đều phải nín nhịn.

Dawa Dolma thì khác hẳn, nàng từng phóng đãng trong thành Lhasa, từng điên cuồng trong quán rượu nhỏ, nàng dám trao ra tất cả vì tình yêu, bất chấp hậu quả. Mãi đến sau này, trên phố đồn đại lãng tử Dangsang Wangpo chính là vị Phật sống Tsangyang Gyatso sống trong cung Potala. Nàng để trong lòng, không nói, cũng không sợ, nàng thích thơ tình Ngài viết cho nàng, đọc hiểu được tình ý êm dịu ấm áp trong thơ. Nàng biết vì sao mỗi ngày trước lúc bình minh, Ngài luôn khẽ khàng vén chặt góc chăn cho nàng, sau đó một mình rời đi. Nàng đau lòng, vì nàng hiểu rõ Ngài không muốn làm vị Phật sống muôn dân quỳ bái kia, mà hướng đến khói lửa nhân gian. Do đó nàng hiến dâng cho Ngài tình yêu tốt đẹp hơn, đêm đêm nghiêng thành vì Ngài, chỉ mong có được nụ cười của Ngài.

Nhiều người không biết, tình lang đẹp đẽ nhất thành Lhasa Dangsang Wangpo, dù cùng mọi người uống rượu vui tràn, nhưng trong mắt Ngài trước sau ẩn giấu một nỗi u uất không xua tan được. Đây là điểm Ngài khác với mọi người, cũng là nguyên nhân nhiều cô gái cuồng nhiệt yêu Ngài. Ngài dùng thời gian ngắn nhất để tạo nên truyền kỳ ở quán rượu nhỏ Makye Ame. Vì sự chí tình chí tính của Ngài, nên lỗi lầm phạm phải đáng được tha thứ, nên muôn ngàn tín đồ sẽ trước sau như một, thậm chí so với lúc trước càng thêm ủng hộ Ngài, trân trọng yêu quý Ngài.

Trên thực tế, từ sau khi Dawa Dolma đi, không ai biết nàng rốt cuộc đã đi đâu. Nàng tựa như một câu đố, biến mất chẳng còn tăm tích trong lịch sử Tây Tạng. Có người nói Dawa Dolma bị Đệ Ba Sangye Gyatso phái người giết chết, sở dĩ y làm như vậy là để triệt để cắt đứt tạp niệm của Tsangyang Gyatso. Duy chỉ có cái chết mới có thể khiến người không còn vướng bận. Tsangyang Gyatso có thể hoài niệm Dawa Dolma suốt đời, nhưng không thể chọn lựa trốn đến chân trời vì nàng nữa. Đệ Ba Sangye Gyatso muốn để Tsangyang Gyatso hiểu rõ, là thói đa tình của Ngài đã hại nàng, khiến Ngài sám hối trong tội lỗi, từ đó kề cận trước Phật, đoạn tuyệt ý niệm trần tục.

Cũng có người nói Dawa Dolma không hề gả cho người khác, mà lựa chọn trở về quê nhà, một mình sống ở một nơi bí ẩn. Một gian nhà gỗ nhỏ, nuôi mấy con bò con cừu, sống rất mực giản đơn. Nàng sớm đã quên mất xa hoa từng có, chỉ muốn yên tịnh giữ gìn khói bếp bốn mùa, lòng như nước tĩnh lặng. Nàng cho rằng như vậy thì có thể giúp vị Phật sống trẻ tuổi quên nàng, cho rằng như vậy có thể giúp Ngài thoát khỏi kiếp số. Nàng đã sơ sót, Tsangyang Gyatso vốn dĩ không phải người thường, do đó số phận của Ngài đã sớm định sẵn, không ai có thể thay đổi. Ngày Tsangyang Gyatso bị quân đội của Lha-bzang Khan áp giải đi, chắc chắn nàng cũng biết, nhưng nàng không đến tiễn đưa, nàng không muốn sự xuất hiện của nàng đem đến cho Ngài càng nhiều vướng bận và thương cảm.

Điều nên qua đi đã qua đi, điều nên lãng quên đã lãng quên. Tôi tin rằng, dù kết cục cuối cùng của Tsangyang Gyatso ra sao, Dawa Dolma cũng sẽ sống thật tốt, sống đến tóc bạc da mồi, qua đó chứng minh lòng kiên trinh không dời của nàng đối với tình yêu. Mọi sự tổn thương bản thân đều là tàn nhẫn đối với người yêu, nàng phải sống tốt để Ngài yên lòng. Người thật sự từng yêu đều hiểu rõ, đều lý giải được. Phương thức yêu của mỗi người khác nhau, có những người chọn sống chết có nhau, có những người lại bằng lòng dùng thời gian một đời để hoài niệm dĩ vãng tốt đẹp.

Dawa Dolma không đến thành Lhasa nữa, nàng mất tích như một câu đố, có người cho rằng nàng chết, có người cho rằng nàng còn sống, nhưng đã chẳng còn quan trọng nữa. Bất kể năm xưa kết quả thế nào, ba trăm năm sau, nàng chỉ có thể lưu lại hồn phách, một hồn phách cô độc dạo chơi trong quán rượu nhỏ Makye Ame. Nếu linh hồn có thể nương tựa nhau, nàng và tình lang Dangsang Wangpo của nàng sẽ vĩnh viễn bên nhau ở đây, để người đa tình đời đời đến nhớ lại, đến cảm động. Có lẽ bạn, có lẽ tôi, chính là một người trong số đó.