Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất - Phần VI - Chương 2

Chuyển thế

Chúng ta đều là khách qua đường giữa chốn hồng trần, cũng từng hiểu biết nhân quả, lại không thể lĩnh ngộ huyền cơ trong đó. Đời này nếu chịu hết khổ nạn, xem như là tiêu trừ nghiệt trái kiếp trước, đời này nếu suôn sẻ bình thản, chỉ xem như là phúc báo có được.

Đều nói một người có linh tính, có thể sẽ trong mơ, hoặc trong một số hình ảnh, biết được kiếp trước và kiếp sau của mình. Bản thân giấc mơ chính là một sự hư ảo, nhưng nhiều người lại bằng lòng chìm đắm trong mơ, mượn tưởng tượng mỹ lệ tuyệt vời, để an ủi buồn khổ trong hiện thực. “Lâm Xuyên tứ mộng[1]” của Thang Hiển Tổ đến nay vẫn được mọi người si mê, là vì tất cả câu chuyện đều xảy ra trong mơ. Trong mơ có nhiều điều kỳ diệu, khó nói nên lời. Trong mơ, có thể không lo cảnh xuân tươi đẹp phải chăng như mây khói thoảng qua, không quản dòng chảy thời gian phải chăng như nước xuân cuồn cuộn một đi không trở lại.

[1] Lâm Xuyên tứ mộng: bốn vở kịch do Thang Hiển Tổ sáng tác, đều liên quan đến chữ “mộng”. Gồm Tứ Tiêu Ký (Tứ Thoa Ký), Mẫu Đơn Đình, Nam Kha Ký, Hàm Đan Ký.

Chúng ta đều là khách qua đường giữa chốn hồng trần, cũng từng hiểu biết nhân quả, lại không thể lĩnh ngộ huyền cơ trong đó. Đời này nếu chịu hết khổ nạn, xem như là tiêu trừ nghiệt trái kiếp trước; đời này nếu suôn sẻ bình thản, chỉ xem như là phúc báo có được. Không ai có thể lật xem kiếp trước của mình, cũng không ai có thể biết được kiếp sau của mình, tất cả suy đoán, đều như đúng như sai.

Do đó đối với chuyển thế của Đạt Lai Lạt Ma các đời ở Tây Tạng, sẽ sinh ra lòng hiếu kỳ, luôn không nhịn được hỏi: Rốt cuộc làm thế nào để tìm được linh đồng chuyển thế? Chẳng lẽ người chết rồi thật sự sẽ có chuyển thế? Cứ xem là có chuyển thế, lẽ nào quá trình phức tạp này sẽ không xuất hiện sai sót? Về việc làm sao tìm kiếm linh đồng chuyển thế và xác nhận linh đồng chuyển thế, trước đây đã có trình bày, nhưng vẫn có quá nhiều huyền cơ không thể giải thích, khiến người nghĩ mãi không hiểu. Lời tiên đoán đáng tin hay không? Cao tăng bói quẻ đáng tin hay không? Nước hồ thánh đáng tin hay không? Còn những hiện tượng thiên văn thần kỳ kia có đáng tin hay không? Nếu nhiều thứ trên thế gian không đáng tin, vậy thì sao vẫn có nhiều tín đồ phủ phục dưới chân Phật như thế để cầu nguyện độ hóa và siêu thoát?

Muốn nhắn với hạc trắng,

Mượn đôi cánh để bay.

Chẳng xa, đến Litang,

Rồi sẽ quay lại ngay.

Bài thơ này năm xưa Tsangyang Gyatso viết trên đường rời Lhasa bị giải về kinh. Ban đầu nhiều người không hiểu thâm ý của nó, cho rằng Tsangyang Gyatso lưu lại duyên cũ gì đó ở Litang, do đó nguyện mượn đôi cánh của hạc tiên, bay đến nơi đó, tìm kiếm người Ngài muốn tìm, kết thúc chuyện Ngài muốn kết thúc. Mãi đến sau này, Tsangyang Gyatso thần bí mất tích ở hồ Thanh Hải, không biết đi đâu. Thế là, các sư của tu viện Ganden[2], tu viện Drepung và tu viện Sera, dựa vào bài thơ này của Ngài, lĩnh ngộ ra điều ảo diệu trong đó, ở một địa phương gọi là Litang, tìm được Kelzang Gyatso, tôn làm Đạt Lat Lạt Ma thứ 7.

[2] Tu viện Ganden (Cam Đan): cách Lhasa khoảng 50km, do Đại sư Tsongkhapa xây năm 1409, cùng với Drepung và Sera được gọi là “ba tu viện lớn của Lhasa”.

Năm 1708, ngày 19 tháng 7 năm Chuột Đất của Rabqung[3] thứ 12 lịch Tạng, Kelzang Gyatso sinh ra ở Duokang mạn dưới Litang. Về một số truyền kỳ lúc Ngài chào đời, có thể lúc đó đã xuất hiện thiên tượng khác lạ nào đó nhưng không ai còn ghi nhớ. Nhưng là một linh đồng chuyển thế, nhất định có điểm không như người thường. Khi Kelzang Gyatso chào đời, Tsangyang Gyatso đã mất tích ở hồ Thanh Hải gần hai năm, còn Yeshey Gyatso do Lha-bzang Khan nâng đỡ cũng đã tọa sàng ở cung Potala một năm. Vị Đạt Lai thứ 6 Yeshey Gyatso diễn lại vai trò Tsangyang Gyatso năm xưa, làm con cờ của Lha-bzang Khan, mặc cho y sắp xếp.

[3] Rabaqung: chu kỳ 60 năm của lịch Tạng.

Yeshy Gyatso dù được vua Khang Hy của Đại Thanh thừa nhận, ban cho ấn vàng, hạ chiếu sắc phong làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, nhưng chưa từng được sư sãi công nhận, cũng không được tín đồ Tây Tạng thật sự kính ngưỡng. Còn Lha-bzang Khan một mình nắm lấy quyền lực chính trị cũng chưa hề thật sự có được lòng dân, cao tăng của tu viện Ganden, tu viện Drepung và tu viện Sera hết sức bất mãn đối với việc Lha-bzang Khan tự tiện quyết định phế lập Đạt Lai Lạt Ma. Các sư sãi còn lại cũng chưa hề ngừng tìm kiếm linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, sau đó trong thơ tình của Tsangyang Gyatso để lại, họ tìm được phương hướng của Phật sống, chính là nơi hạc tiên phải bay đến - Litang.

Cao tăng của ba tu viện lớn tin chắc thơ tình của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso ẩn giấu huyền cơ, là để ngầm chỉ cho họ nơi tồn tại của linh đồng chuyển thế của Ngài. Thế là họ đã tổ chức nhiều sư sãi đến Litang, và tìm được đứa trẻ tên là Kelzang Gyatso, lại thông qua nghiệm chứng nhiều phương diện, xác định đứa bé đó chính là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6. Họ dâng thư cho vua Đại Thanh, ra sức yêu cầu phế bỏ Đạt Lai giả do Lha-bzang Khan lập, công nhận lại Kelzang Gyatso là thân phận linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6.

Lúc đó cục thế Tây Tạng vẫn gió mưa rung chuyển, tuy Lha-bzang Khan đã chiến thắng Đệ Ba Sangye Gyatso, đuổi Phật sống Tsangyang Gyatso đi, nhưng cách làm của y không được mọi người tán thành. Nhiều bộ lạc như hổ đói chờ mồi lăm le nhòm ngó y, vị trí thủ lĩnh Tây Tạng của y cũng lung lay muốn đổ. Do mấy lần biến động, vua Khang Hy cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ, nhà vua không phế bỏ Yeshey Gyatso, giữ thái độ trung lập trước thân phận của linh đồng chuyển thế Kelzang Gyatso. Nhưng nhà vua có lòng quan tâm chăm sóc đặc biệt đối với đứa trẻ này, chuyển bé đến ở trong phạm vi thế lực của bộ lạc Khoshut tại Thanh Hải, và đưa bé đến tu viện Kumbum[4] cạo đầu đi tu học kinh.

[4] Tu viện Kumbum (Tháp Nhĩ Tự): cách thành phố Tây Ninh thủ phủ tỉnh Thanh Hải 25km, xây năm 1560, là nơi sinh của Đại sư Tsongkhapa người sáng lập phái Gelug.

Mãi đến năm 1717, Lha-bzang Khan bị quân đội Dzungar giết, Yeshey Gyatso bị giam cầm, thân phận Phật sống của Yeshey cũng tự nhiên bị tín đồ Tây Tạng lật đổ. Năm 1719, vua Đại Thanh bình định xong phản loạn Dzungar, mới chính thức thừa nhận thân phận linh đồng chuyển thế của Kelzang Gyatso. Hoàng tử thứ 14 của Khang Hy và mấy vị đại thần cùng ba ngàn binh sĩ, từ Tây Ninh đến tu viện Kumbum, bố trí đại quân Hán Mông, làm tốt mọi việc chuẩn bị để nghênh đón linh đồng chuyển thế. Năm sau, hoàng tử mang ấn vàng và sách vàng của Khang Hy ban cho Đạt Lai Lạt Ma đến, đồng thời cử hành lễ lớn tọa sàng long trọng cho Kelzang Gyatso ở cung Potala.

Kelzang Gyatso tuy được quyết định là linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, và được sư sãi của phái Gelug công nhận Ngài là Đạt Lai thứ 7, nhưng chính phủ triều Thanh lại kiên trì Kelzang Gyasto là Đạt Lai thứ 6, cho rằng Kelzang Gyatso là tiếp nhận thay thế chứ không phải kế thừa pháp vị của Đạt Lai thứ 6 đã bị phết truất, không thể công nhận làm Đạt Lai thứ 7. Sau đó vì nhân dân Tây Tạng trước cho rằng Kelzang Gyatso là Đạt Lai thứ 7, mãi đến năm Càn Long[5] thứ 48, khi vua Càn Long phong Jamphel Gyatso[6] làm Đạt Lai thứ 8, có nghĩa ngầm thừa nhận Kelzang Gyatso là Đạt Lai thứ 7, còn Tsangyang Gyatso cũng thuận lý thành chương trở thành Đạt Lai thứ 6.

[5] Càn Long (1711-1799): Hoàng đế thứ sáu của nhà Thanh, tên húy Hoằng Lịch, miếu hiệu Thanh Cao Tông. Thời kỳ trị vì 1736-1795, là thời cực thịnh về kinh tế và quân sự của nhà Thanh.

[6] Jamphel Gyasto (Cường Bạch Gia Mục Thố, 1758-1804): Đạt Lai Lạt Ma thứ 8

Ngày Kelzang Gyatso cử hành điển lễ tọa sàng ở cung Potala, trăm ngàn tín đồ trong thành Lhasa phủ phục dưới chân Hồng Sơn, tụng niệm kinh Phật, dùng nghi thức thành kính nhất bày tỏ họ đi theo Đạt Lai Lạt Ma thứ 7, tuyên bố với núi xanh nguy nga và sông ngòi cuồn cuộn tín ngưỡng cả đời không đổi của họ. Điển lễ tọa sàng lần này chẳng hề thua kém phong quang khi Tsangyang Gyatso tọa sàng năm xưa. Lịch sử chẳng qua diễn lại từng màn hý kịch, thứ thay đổi chỉ là những vai diễn vội vã lướt qua, có một ngày, chúng ta đều sẽ biến mất không vướng bận, trở thành quá khứ, trở thành lịch sử.

Trên ấn vàng nhà Thanh ban cho Kelzang Gyasto có khắc: “Hoằng Pháp Giác Chúng Đệ Lục Thế Đạt Lai Lạt Ma Chi Ấn[7]”. Nếu Kelzang Gyasto là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, thế thì Ngài lẽ đương nhiên phải là Đạt Lai Lạt Ma thứ 7. Nếu Kelzang Gyatso không phải là linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, thế thì Ngài tồn tại với thân phận nào? Nếu năm xưa Tsangyang Gyatso thật sự bệnh chết ở hồ Thanh Hải, thế thì Kelzang Gyatso có lẽ thật sự là linh đồng chuyển thế trong thơ Ngài chỉ ra, nhưng nếu giống như “Bí truyện” kể, Ngài không chết đi, mà phiêu bạt giang hồ, sau cùng ẩn náu ở Alxa, thế thì từ đâu ra cách nói linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso?

[7] Ấn của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 hoằng dương Phật pháp giác ngộ chúng sinh.

Lịch sử đan xen phức tạp, huyền cơ trùng trùng, thực là quá đỗi lằng nhằng. Không ai có thể đưa ra một câu trả lời xác định về việc Tsangyang Gyatso đi đâu, làm gì, về lai lịch của Kelzang Gyatso. Bản thân lịch sử chính là một vũ đài kỳ quái sặc sỡ, biết bao người tồn tại không rõ ràng, lại ra đi không rõ ràng, trước giờ đều không thật sự nắm giữ cuộc đời của mình. Bản thân Kelzang Gyatso cũng không hiểu rõ, rốt cuộc lấy thân phận nào ngồi trên ngai Phật của cung Potala, ngồi suốt mấy mươi năm. Về câu đố thân phận của mình, Ngài không hỏi, cũng không cách gì hỏi được. Chỉ đành tin tưởng mình thật sự là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, tin tưởng mình là Phật sống theo lời tiên đoán trong thơ của Tsangyang Gyatso. Bởi vì, Litang là quê hương của Ngài.

Ngày 15 tháng 9 năm 1720, Kelzang Gyatso cử hành điển lễ tọa sàng ở cung Potala, tôn Ban Thiền thứ 5 Lobasang Yeshe làm thầy, thọ giới sa di. Sau đó vào tu viện Drepung học kinh. Năm 1727, Kelzang Gyatso hai mươi tuổi, lại thọ giới tỳ khưu từ Ban Thiền thứ 5. Sau khi tự mình chấp chính, Kelzang Gyatso dốc sức vào sự vụ tôn giáo, hoằng dương Phật pháp, tạo phúc chúng sinh. Ngài sống cả đời khiêm tốn tiết kiệm giản dị, rất được dân chúng Tây Tạng kính yêu.

Trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền Tây Tạng, đã xuất hiện ba vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Tất cả những chuyện này, duyên khởi từ Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, chính Ngài đã diễn dịch truyền kỳ, lại tiếp diễn truyền kỳ. Nhưng ba vị Đạt Lai này cũng chỉ là thanh y trên vũ đài cung Potala, bất lực đạo diễn màn kịch của người khác, nhưng nào đã được sở hữu bản thân chân thực? Tsangyang Gyatso dù vẫn được người đời sau ngược dòng hoài niệm, nhưng cả đời của Ngài rốt cuộc là một câu đố không thể giải đáp. Yeshey Gyatso càng đáng buồn hơn, ở trong cung Potala mười một năm, đến nay cả một sợi tóc của Ngài cũng không tìm được. Còn Kelzang Gyatso định sẵn là bình dị, có lẽ Ngài cũng chỉ là một vật thay thế, dùng nhục thân của Ngài để thay thế một vị trí hư không.

Trước những nghi hoặc không thể giải thích, chúng ta rốt cuộc nên tin điều gì, không nên tin điều gì? Có lẽ chúng ta nên giống như mây trắng gió mát, nhàn nhã tự tại, không phiền lo, quấy nhiễu. Giống như những người dân Tạng thành kính kia, tin tưởng sự tồn tại của Thần Phật, tin tưởng mỗi một áng mây trắng, mỗi một chú linh dương Tạng đều có linh tính không thể nói bằng lời. Như vậy sẽ không cần tìm kiếm lời giải cho câu đố hiểm hóc kia, không cần biết chân tướng của ba trăm năm trước. Cứ để câu đố mãi mãi là câu đố, để hôm qua mãi mãi qua đi, để câu chuyện mãi mãi chỉ là câu chuyện. Người hiền lành như bạn và tôi, chỉ ở một góc của trần thế, trầm tĩnh yên ổn, là tốt rồi.

Chốn về

Mỗi người đều khát vọng đời này có thể tìm được một nơi chốn để linh hồn nghỉ ngơi, nuôi dưỡng tình cảm, yên thân gửi phận ở đó. Có lẽ nơi đây chẳng phải là quê hương, không nhìn thấy thấy phong cảnh thiên nhiên thuần phác thuở nhỏ, nhưng có khi còn hơn cả quê hương.

Mỗi người đều khát vọng đời này có thể tìm được một nơi chốn để linh hồn nghỉ ngơi, nuôi dưỡng tình cảm, yên thân gửi phận ở đó. Có lẽ nơi đây chẳng phải là quê hương, không nhìn thấy phong cảnh thiên nhiên thuần phác thuở nhỏ, nhưng có khi còn hơn cả quê hương. Có thể thu nhận một lữ khách chân trời là đủ để thấy nó có lòng dạ rộng rãi khoan hậu. Chúng ta đều là người mệt mỏi với số mệnh bôn ba trên thế gian này, vắng lạnh rong ruổi nơi đường ngang lối dọc, không biết cuối cùng rễ mọc ở chốn nào, lại sẽ quay về chốn nào.

Tsangyang Gyatso trải qua biển biếc nương dâu, đời người biến đổi, nhiều năm trôi dạt đã khiến Ngài chán ngán. Mãi đến khi gặp gỡ Alxa Nội Mông Cổ, một vùng đất có thảo nguyên, qua bích và hoang mạc. Đối với nhiều người, mảnh đất này quá đỗi bình thường, chẳng có bao nhiêu phong cảnh đẹp đẽ. Nhưng Tsangyang Gyatso lại có tình cảm vừa gặp đã xiêu lòng đối với nơi này, vì Alxa đã cho Ngài cảm giác an toàn, phong tục dân gian chất phác ở đây khiến Ngài có một cảm giác mơ về quê cũ. Phiêu bạt hồng trần mười năm, Tsangyang Gyatso không phải chỉ đơn thuần thưởng thức phong thổ nhân tình các nơi, Ngài đang lưu vong, bị bức bách bởi thế lực của Lha-bzang Khan, Tsangyang Gyatso sống những ngày trốn chui trốn nhủi. Do đó mười năm này nếm đủ gian nan, tuy cứu rỗi được nhiều dân chúng, nhưng bản thân chưa từng được yên ổn thực sự.

Alxa từ đó đã là quê hương thứ hai của Tsangyang Gyatso, tên tuổi Ngài đã từng khiến gió mây xao động ở thành Lhasa, người dân Tây Tạng ngày đêm truyền xướng tình ca của Ngài. Còn ở Alxa, mọi người truyền tụng đủ mọi sự tích của vị thần bảo hộ thảo nguyên này, các phiên bản mới không ngừng được sinh ra. Trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji, đã ghi chép nhiều thần tích linh dị của Tsangyang Gyatso. Dường như Ngài thật sự là một vị Phật sống rơi xuống trần gian, có thần thông và pháp lực vô tận, mà tất cả sứ mệnh của Ngài, đều là vì hoằng dương Phật pháp, tạo phúc sinh linh, phổ độ chúng sinh. Khiến mọi người tin tưởng, ở thảo nguyên Alxa thật sự có một nhân vật thần kỳ như vậy, một vị Phật sống từ bi như vậy.

Có lúc rất khó tin, chính vì lần chạy trốn ở hồ Thanh Hải, khiến Tsangyang Gyatso sau khi nếm đủ trăm vị đã triệt để biến thành một người khác chăng? Một vị Phật không còn phong hoa tuyết nguyệt viết thơ tình, mà tâm niệm chúng sinh? Từng ngồi trên ngai Phật chót vót, chỉ muốn lưu lạc chân trời, vì một tình yêu, có thể không cần những tín đồ phủ phục dưới chân; giờ đây lưu vong ở dân gian, lại chỉ nghĩ đến trăm họ, chỉ muốn vì họ mở rộng cánh cửa trong lòng, miễn đi luân hồi bể khổ. Có lẽ chặng đường sinh mệnh thật sự sẽ triệt để thay đổi một người, người quen thuộc sẽ biến thành xa lạ; người ác độc sẽ biến thành lương thiện; người ích kỷ sẽ biến thành vô tư.

Sống, chẳng qua là thời gian một đóa hoa nở; chết, cũng chẳng qua là khoảnh khắc một phiến lá rụng. Có những người bằng lòng nghĩ rằng Tsangyang Gyatso như một đóa hoa rụng rực rỡ chết đi, kết thúc truyền kỳ một đời của Ngài ở hồ Thanh Hải. Có những người lại muốn nghĩ rằng Ngài giống như cỏ cây bền bỉ mà sống, phiêu bạt ở nhân thế, vì niềm tin Thiền Phật của Ngài. Cỏ cây nhân gian, vội vã đã là một đời, nhưng chúng ta luôn hy vọng hoàn mỹ, tình duyên dang dở có thể kết liễu, tâm nguyện lâu năm chưa hoàn thành có thể tròn vẹn. Một quyển “Bí truyện” đã giải mộng cho biết bao người, lại đập tan sự hoàn mỹ ban sơ của biết bao người?

Từ khi Tsangyang Gyatso đến Alxa, nhiều sự tích kỳ dị xảy ra ở đây đã được mọi người tranh nhau truyền tụng. Còn vương gia A Bảo, người thống trị cao nhất của Alxa, cũng đã nghe nhiều truyền kỳ về Ngài. Vương gia A Bảo liền lệnh cho trưởng giả có thân phận của Alxa đi mời Ngài đến, và đích thân dẫn quan viên cùng tín đồ nghênh đón ở vương cung, long trọng tiếp đãi vị thánh tăng này. Tsangyang Gyatso chẳng khi nào tiết lộ thân phận của mình với bất cứ ai, những năm nay Ngài đi lại giữa dân gian, đóng nhiều vai trò khác nhau. Ở Alxa, Ngài chỉ là một nhà sư có trình độ Phật học cao thâm, không ai biết Ngài từ nơi nào đến, cũng không ai xét nét quá khứ của Ngài.

Vương gia A Bảo là một người độ lượng cởi mở, cũng có tấm lòng thành kính đối với Phật giáo Tạng truyền, ông cùng Đạt Lai có ngọn nguồn rất sâu. Vì mấy năm sau, ông sẽ nhận ủy nhiệm của triều Thanh, đến Litang thuộc khu Tạng Tây Khang, hộ tống Kelzang Gyatso[1] người Litang đến Lhasa cử hành điển lễ tọa sàng, vị Kelzang Gyatso này chính là linh đồng chuyển thế của Đại Lai thứ 6 mà dân gian nhận định, tức Đại Lai Lạt Ma thứ 7.

[1] Kelzang Gyatso (Cách Tang Gia Mục Thố, 1708-1757): Đạt Lai Lạt Ma thứ 7

Vương gia A Bảo cùng Tsangyang Gyatso gặp nhau ở Alxa, cũng là duyên phận của ông với Phật. Họ vừa gặp như đã quen biết, chuyện trò rất vui vẻ. Vương gia A Bảo bị thu hút bởi khí độ phi phàm của Tsangyang Gyatso, cũng bị thuyết phục bởi vẻ từ bi và ung dung toát ra giữa vầng trán của Ngài, bèn khẩn khoản mời Ngài đảm nhiệm chức Thượng Sư của Alxa, suốt đời lưu trú ở đây, tạo phúc chúng sinh. Còn Tsangyang Gyatso sớm đã có cảm tình với mảnh đất này, Ngài đã nhận định Alxa là chốn về kiếp này của Ngài. Do đó Ngài đã nhận lời mời của vương gia A Bảo, kết nên Phật duyên với nơi đây, vì chúng sinh nơi đây mưu cầu phúc báo.

Năm 1717, Tsangyang Gyatso ba mươi lăm tuổi, nhờ sự quan tâm chiếu cố của vương gia A Bảo, danh tiếng càng thêm truyền xa ở Alxa. Ngài cũng dốc hết pháp lực của mình, bảo vệ tất cả sinh linh của mảnh đất này. Năm đó, Lha-bzang Khan bị quân đội Dzungar giết chết, Yeshy Gyatso Đạt Lai thứ 6 do Lha-bzang Khan lập bị nhốt trong tu viện núi Dược Vương[2], vị Đạt Lai giả vô tội này lặng lẽ chết đi bảy năm sau đó. Dân gian Tây Tạng vẫn bàn luận câu đố về sự mất tích của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, đồng thời sôi nổi hưởng ứng Kelzang Gyatso, linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 6 làm Đạt Lai mới.

[2] Núi Dược Vương (Chokpori): một ngọn núi ở Lhasa, được xem là núi thiêng của Kim Cương Thủ Bồ Tát.

Những năm nay, Tsangyang Gyatso hóa danh làm Ngawang Chödrag Gyatso[3], du ngoạn các nơi như Ấn Độ, Tây Tạng, Tứ Xuyên. Lúc đó vương gia A Bảo hơi hoài nghi về thân phận của vị thánh tăng hóa danh làm Ngawang Chödrag Gyatso này. Ông thậm chí cảm thấy Ngài chính là Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso đã mất tích ở hồ Thanh Hải. Nhưng Tsangyang Gyatso trước sau là khâm phạm của triều đình Đại Thanh, do đó không tiện nói toạc ra, chỉ tin thờ Ngài làm Thượng Sư của Alxa, từ đó đối với Ngài càng thêm kính yêu và quan tâm.

[3] A Vượng Khúc Trát Gia Mục Thố.

Còn vương phi của vương gia A Bảo - công chúa Đạo Cách Hân, thấy vương gia A Bảo và trăm họ ở Alxa tin thờ Tsangyang Gyatso như thế, thì hơi không tán thành. Vương phi A Bảo là vị Hòa Thạc Cách Cách đầu tiên của vương triều Mãn Thanh được gả đến Alxa, từ nhỏ rất được ân sủng, quen được nuông chiều. Ở kinh thành bà cũng từng nghe không ít câu chuyện truyền kỳ về cao nhân giang hồ, do đó không hề để ý nhà sư vân du bốn phương mới đến này. Sau đó qua mấy lần tiếp xúc, bà cũng bị khí độ và pháp lực siêu phàm của Tsangyang Gyatso thuyết phục sâu sắc, thậm chí tự cho mình là đệ tử thành kính, quyết ý trọn đời đi theo vị Thượng Sư truyền kỳ này.

Nghe nói vương phi A Bảo còn dùng tóc của mình làm một búi tóc đội đầu cho Tsangyang Gyatso, khảm lên các loại châu báu, tinh xảo cực kỳ. Đến nay ở tu viện Guangzong[4] của Nội Mông Cổ vẫn bảo toàn hoàn hảo búi tóc do vương phi A Bảo dùng tóc kết thành và một bộ phận y phục trang sức, những tín đồ thành kính mượn đó để tưởng nhớ, năm xưa Tsangyang Gyatso thật sự lưu lại dấu chân ở Alxa, đồng thời kết nên duyên xưa với vương gia và vương phi A Bảo. Trong di vật của Tsangyang Gyatso, người đời sau còn phát hiện tóc của phụ nữ, càng chứng thực thói phong lưu đa tình của vị Phật sống trẻ tuổi này. Truyền thuyết đẹp buồn, ở Tây Tạng, ở thảo nguyên Alxa, vì có những truyền thuyết này, tỏ ra càng thêm thần bí, khiến người hướng đến.

[4] Tu viện Guangzong (Quảng Tông): còn gọi là Nam Tự, là tu viện lớn nhất của Alxa, Nội Mông Cổ.

Trung thu năm đó, nhân dịp vương phi A Bảo - công chúa Đạo Cách Hân về kinh triều kiến, bèn mời Tsangyang Gyatso cùng đi. Thế là Tsangyang Gyatso dẫn theo mấy đệ tử, theo công chúa Đạo Cách Hân vào kinh nửa năm, ngụ tại vương phủ Alxa ở Thập Sát Hải[5]. Thăm Hoàng Tự, Hoàng Cung, xem Phật lớn làm bằng gỗ đàn hương do Yeshy Gyatso dâng ở cung Ung Hòa[6]. Vương phi A Bảo luôn chăm sóc chu đáo, rất mực cung kính đối với Thượng Sư, khiến kẻ trên người dưới trong vương phủ đều vô cùng tôn sùng nhà sư thân phận đặc thù này. Tsangyang Gyatso là Phật sống, trên người Ngài nhất định có một khí chất không giống với người thường, diện mạo tuấn tú, tính Phật từ bi của Ngài khiến người không thể kháng cự.

[5] Thập Sát Hải: là ba hồ Tiền Hải, Hậu Hải và Tây Hải trong nội thành Bắc Kinh. Vì xung quanh có mười chùa miếu nên gọi là Thập Sát Hải.

[6] Cung Ung Hòa: nằm ở khu Đông Thành, Bắc Kinh, là tự viện Phật giáo Tạng truyền lớn nhất trên đất Hán.

Ở cửa Đức Thắng, Tsangyang Gyatso tận mắt nhìn thấy tình cảnh con cái và người nhà của Đệ Ba Sangye Gyatso bị áp giải vào kinh. Đệ Ba Sangye Gyatso từng gió mây bất tận, nắm giữ cục diện chính trị Tây Tạng mấy mươi năm, sau khi đầu rơi xuống đất, hào hoa phú quý của hôm qua đều chìm vào khói bụi. Người chết đã đành, người sống tội gì, vậy mà họ vẫn phải chịu sự trừng phạt khắc nghiệt vì lỗi lầm của quá khứ. Nhưng họ thật sự sai sao? Thắng làm vua, thua làm giặc, định số ngàn xưa chẳng ai có thể thay đổi. Ngắm từng khuôn mặt dính đầy gió bụi, nhớ đến những chuyện tiền nhân quá vãng, Tsangyang Gyatso cảm khái muôn vàn.

Mười năm gió mưa không tự chủ, hôm nay Ngài đất khách gặp người quen, lại là tình cảnh thế này. Bất kể Đệ Ba Sangye Gyatso từng gây tổn tương thế nào đối với Tsangyang Gyatso, nhưng chung quy từ đầu đến cuối, y là người thân mật nhất trong cung Potala của Ngài. Cũng chỉ có Sangye Gyatso thật sự từng bảo vệ Ngài, đồng thời từng dạy Ngài kinh điển Thiền học, khiến Ngài được lợi ích cả đời. Giờ đây Tsangyang Gyatso nhìn người nhà của Sangye Gyatso luân lạc đến đây mà lại bất lực, ngoài than thở, Ngài còn có thể làm gì?

Ai nói Phật sống sinh ra đã có sức mạnh của thần, có thể hô mây gọi gió, có thể độ hóa chúng sinh? Trong nhân gian mênh mang, có lúc Phật cũng không ngăn nổi một chút sóng gió, vì định luật nhân quả, ý trời khó trái. Khi xót xa bứt rứt, Phật cũng sẽ rơi lệ.