Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất - Phần VI - Chương 4 (Hết)

Lời cuối sách: Kiến dữ bất kiến[1]

[1] Gặp hay không gặp, Đào Bạch Liên dịch thơ.

Vào một mùa xuân mai nở, tôi viết một câu thế này trên chữ ký cá tính của mình: Biết bao phồn hoa thành mộng cũ, nhân gian hiện lại Bạch Lạc Mai. Bạn nói có cảm giác tái xuất giang hồ, tôi điềm đạm mỉm cười. Khi viết xong cuốn thi truyện này về Tsangyang Gyatso thì đã vào mùa đông lạnh lẽo, mùa đông này, Giang Nam nhiều tuyết. Khi tôi gác bút, khấn một tâm nguyện cuối cùng: nguyện non sông tươi đẹp, thời thịnh yên vui. Sau đó cứ luôn trầm mặc, mãi đến sau Tết, ngắm bên suối cỏ xanh mơn mởn, trong vườn hoa mai nở rộ, mới bừng tỉnh cảm thấy phải kịp thời tranh thủ lấy mùa xuân.

Khoảng thời gian này, tôi biết đến “Phi thành vật nhiễu II[2]”, biết trong phim có một bé gái tên Xuyên Xuyên đã đọc một bài thơ - “Kiến dữ bất kiến”. Chính bài thơ này đã cảm động muôn ngàn người, biết bao người lệ rơi đầm đìa vì nó. Trước đó, nhiều người đều cho rằng “Kiến dữ bất kiến” là do Tsangyang Gyatso viết, và mải mê truyền xướng. Mãi đến sau này mới biết là bài thơ “Ban trát cổ lỗ bạch mã đích trầm mặc” do một nhà thơ nữ hiện đại tên Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa[3] viết. Mà linh cảm của bài thơ này đến từ một câu nói vô cùng nổi tiếng của đại sư Liên Hoa Sinh: “Ta chưa từng rời bỏ những người tín ngưỡng ta, hay thậm chí người không tin ta, tuy họ không nhìn thấy ta, các con của ta, sẽ mãi mãi, mãi mãi được lòng từ bi của ta bảo vệ.”

[2] Phi thành vật nhiễu II: phim điện ảnh của Trung Quốc, đạo diễn Phùng Tiểu Cương, biên kịch Vương Sóc, các diễn viên Cát Ưu, Thư Kỳ, Tôn Hồng Lôi, Diêu Thần, An Dĩ Hiên...

[3] Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa (sinh năm 1978): tên thật Đàm Tiếu Tỉnh, nữ Phật tử người Quảng Đông, hiện tu hành ở Bodhgaya, Ấn Độ.

Còn khi tôi xem được một câu thế này của Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa viết, cũng cảm động sâu sắc. “Cho dù như thế, Đa-đa bằng lòng đem vinh dự quy về Tsangyang Gyatso.” Trương Ái Linh[4] từng nói, bởi vì hiểu được, cho nên từ bi. Thứ chúng ta cứ luôn theo đuổi, chẳng phải chính là giữa người và người thêm một phần hiểu nhau, thêm một phần trân trọng, thêm một phần thương xót hay sao? Tin rằng Tsangyang Gyatso cũng sẽ không muốn đòi phần vinh dự này, với tài hoa của Ngài, khí độ của Ngài, tiêu sái của Ngài, há lại để ý cách nhìn của người đời ba trăm năm sau đối với Ngài hay sao?

[4] Trương Ái Linh (1920-1995): nhà văn nữ của Trung Quốc. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm "Sắc, Giới" và "Chuyện tình giai nhân".

Tsangyang Gyatso từng có được sự tôn vinh cao nhất, được trăm ngàn tín đồ thành kính lễ bái, được nhiều cô gái xinh đẹp trong thành Lhasa kính yêu sâu sắc, đã viết vô số bài thơ tình đau khổ triền miên. Dù có bài thơ “Kiến dữ bất kiến” này hay không, Ngài vẫn là vị tình tăng tuyệt mỹ nhất trong lòng người đời, trên miền đất thần bí gọi là Tây Tạng ấy, trồng đầy hoa tình. Chỉ cần người đi ngang qua nơi ấy, thậm chí người từng đọc thơ tình của Ngài, đều sẽ trúng độc. Nhưng nhiều người biết rõ là độc, lại chẳng hỏi có thuốc giải hay không, uống ực xuống, không oán không hối. Chẳng biết, đây rốt cuộc là sức hấp dẫn của văn chương, hay là sức hấp dẫn của tình yêu, hoặc là trong tối tăm được tính Phật dẫn dắt, một khi chìm lún, khó tự rút ra.

Thật ra, cả đời này của Tsangyang Gyatso đều bị vận mệnh sắp đặt, không thể đi theo phương thức của mình. Vốn sinh ra ở một miền đất nhỏ tươi đẹp gọi là Monyu, có cô gái làng bên mơ xanh ngựa gỗ bầu bạn, vốn cho rằng có thể giữ gìn hạnh phúc bình dị này, yên ổn sống trọn đời. Tiếc rằng Ngài lại là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 Lobsang Gyatso, đời này phải trả cái giá mênh mang vì ước nợ của kiếp trước. Đệ Ba Sangye Gyatso vì tiếp tục lợi dụng quyền uy của Đạt Lai thứ 5 quản lý chính vụ của Hoàng Giáo, giữ kín không phát tang mười lăm năm đối với cái chết của Lobsang Gyatso. Còn Tsangyang Gyatso cũng đã ẩn mình mười lăm năm, mãi đến khi Ngài vào ở trong cung Potala, tòa cung điện thần thánh này hoàn toàn không cho Ngài kết quả mong muốn.

Tsangyang Gyatso đã làm con cờ của Sangye Gyatso, giống một con chim bị giam cầm trong chiếc lồng hoa lệ, không có quyền lực cao nhất, mất đi vui vẻ tự do. Nếu không phải tìm được con đường thông đến thành Lhasa trong cung Potala, Tsangyang Gyatso cũng sẽ không sở hữu tình yêu ghi lòng tạc dạ ấy. Ở một quán rượu nhỏ tên Makye Ame, Phật sống Tsangyang Gyatso đã trở thành lãng tử Dangsang Wangpo, Ngài đã phải lòng cô gái Qonggyai xinh đẹp, mới bất lực hỏi Phật: Thế gian nào có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng.

Có lẽ chính vì Tsangyang Gyatso là một nhà sư, cho nên tình thâm của Ngài càng khiến người cảm động. Thế gian này có nhiều tình cảm phải gồng gánh quá nhiều bất lực, muốn yêu không thể, muốn thôi chẳng nỡ. Ai lại có thể ngồi yên trên mây, dửng dưng nhìn xuống khói lửa phàm trần mà bản thân không vương chút bụi nhỏ. Tương phùng đẹp đẽ chốn trần thế luôn khiến bạn và tôi tình khó cầm lòng, chỉ là xưa nay chẳng có tình duyên nào thật sự có thể gắn bó trọn đời. Nhưng chúng ta vẫn không hề quản ngại mà yêu, đón nhận luân hồi của gặp gỡ và ly biệt, đón nhận số mệnh nhân quả duyên đến duyên đi. Hôm nay tôi là chu sa trong lòng bạn, ngày mai trăn trở lại chân trời.

Từng có biết bao tình yêu ghi lòng tạc dạ, đều bị chúng ta nhất nhất quét xuống trần ai. Luôn có một số quá khứ sẽ trở thành hồi ức lâu dài, đồng thời không thể lãng quên. Chúng ta luôn muốn có một lẽ vĩnh hằng, nhưng lại có mấy ai bằng lòng tin tưởng vĩnh viễn. Rất nhiều người, không nề ngàn núi muôn sông, đến Tây Tạng, nhặt nhạnh dấu chân của Tsangyang Gyatso. Là vì họ muốn truy tìm một đáp án đã trầm mặc ba trăm năm chăng? Hay chỉ để tìm một bờ bên kia cho tình duyên không chốn đặt tên của mình? Có những người đã quên mất đường về, kiếp này ở lại hồ Thanh Hải, làm tri kỷ trọn đời với nước hồ, trao đổi tâm tính nhu tình với một ngọn cỏ lác. Càng có nhiều người, hối hả đi về, không kịp khấn một tâm nguyện, lại chìm vào trong biển người mênh mang.

Đời người như bèo trôi, tụ tán đôi đường mờ mịt. Lần này ra đi trải qua nhiều năm, muôn dặm núi Bồng, nào đã tham vọng còn sẽ có ngày gặp lại. Sở hữu, chẳng qua là tìm về thứ mình thất lạc, mất đi, cũng chỉ là hai tay dâng trả mọi thứ có được. Xem trời đất lâu dài đều là bèo nước gặp nhau; xem tình sâu ý nặng đều là gió nhẹ mây nhạt. Đến một ngày kia, có lẽ chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới không mừng không lụy, không thêm không bớt, không lơi không siết. Chỉ là lúc ấy, ai còn cần một vòng tay ấm ấp, ngả xuống nghỉ ngơi linh hồn mệt mỏi? Ai lại muốn vào ở trong trái tim ai, bình lặng yêu nhau, âm thầm thương tưởng?

Ba trăm năm đã qua, Tsangyang Gyatso trải qua mấy lần luân hồi chuyển thế, Ngài đã tu luyện thành gì? Tôi tin rằng, người từ bi, nguyện đem bản thân héo rụng thành bùn, thiêu đốt thành tro, dù tản mát ở bất cứ ngóc ngách nào trên thế gian này, đều có thể thản nhiên đối diện. Một giấc phù du, chúng ta chẳng qua là ở trong mộng, đạo diễn bản thân, lại ở ngoài mộng, lạnh lùng nhìn nhau, cùng người trong mộng dường như người dưng nước lã.

Người mất như thế, ngàn gọi không về. Biển biếc dàu dàu, nương dâu nhợt nhạt. Đời người chìm nổi, cỏ cây cũng có tình cảm, khói bụi cũng biết ấm lạnh. Nhưng trái tim của chúng ta luôn không tìm được một chốn về bình yên, có thể yên thân gửi phận. Biết bao tâm tình cần nuôi dưỡng, biết bao lời hứa mong đợi thực hiện, còn có biết bao lỗi lầm khao khát làm lại từ đầu. Chỉ là không trở về được nữa, thời gian cuồn cuộn, như nước chảy về đông, chẳng thể quay đầu lại. Một mở một khép, một ly một hợp, một vui một buồn của ba trăm năm trước cũng chỉ là chớp mắt. Có những tình cảm rốt cuộc không thể thay thế, có những duyên phận định sẵn ngắn ngủi như vậy.

Tsangyang Gyatso từng quỳ trước Phật, thốt ra câu hỏi hoang mang mà tình sâu. Đại ái vô ngôn, không cầu mỗi người đều từ bi khoan dung như Phật, chỉ mong mỗi trái tim thêm một chút hiền lành, bớt một chút ý ác. Phải tin rằng, linh hồn của chúng ta rất đỗi yếu đuối, một bài tình ca, một đoạn câu từ, một lối gieo vần, đều có thể khiến nó bồi hồi xao xuyến. Đã là như thế, lại còn có điều gì không thể tha thứ, còn có điều gì không thể chịu đựng?

Hãy hết lòng trân trọng, trân trọng một cuộc tình duyên mà bạn và tôi sở hữu. Để núi thần hồ thánh làm chứng, nói với Tsangyang Gyatso, chúng ta cũng từng thu xếp hành tranh đến kiếp trước tìm Ngài, dù lưu lạc cùng khốn, vẫn vì Ngài dâng hiến trái tim ban sơ tinh khiết đẹp đẽ. Bất kể gặp gỡ hay không, chúng ta đều là những người từng được Ngài cứu rỗi. Đã yêu thích “Kiến dữ bất kiến” như thế, thì lấy bài thơ này làm kết cuộc, giống như khởi đầu của đoạn tình sâu ấy năm xưa.

Nàng gặp, hay không gặp ta

Ta vẫn ở đây

Không mừng, không lụy

Nàng nhớ, hay không nhớ ta

Tình vẫn ở đây

Không còn, không mất

Nàng yêu, hay không yêu ta

Yêu vẫn ở đây

Không thêm, không bớt

Nàng theo, hay không theo ta

Tay ta vẫn nơi nàng

Không lơi, không siết

Hãy ngả vào lòng ta

Hoặc là

Dành cho ta một chỗ trong trái tim nàng

Bình lặng yêu nhau

Âm thầm thương tưởng.

Bạch Lạc Mai

Tháng 2 năm 2011 tại sơn trang Lạc Mai

Phụ lục: Niên phổ của Tsangyang Gyatso

Năm Sùng Đức[1] thứ 7, năm 1642, Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso trở thành lãnh tụ chính trị tôn giáo toàn Tây Tạng, 25 tuổi.

[1] Sùng Đức: niên hiệu thứ hai của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, sử dụng 8 năm (1636-1643).

Năm Thuận Trị thứ 9, năm 1652, Đạt Lai thứ ba dẫn ba ngàn người vào Bắc Kinh gặp mặt vua Thuận Trị.

Năm Khang Hy thứ 18, năm 1679, Sangye Gyatso nhậm chức Đệ Ba.

Năm Khang Hy 21, năm 1682, Đạt Lai thứ 5 qua đời, di chúc giữ kín tin tức 12 năm.

Năm Khang Hy thứ 22, năm 1683, 1 tuổi. Ngày 26 tháng Giêng, Tsangyang Gyatso chào đời ở Monyu, Cona, Lhoka, có cảnh tượng kỳ lạ bảy mặt trời cùng mọc, cột vàng chiếu rọi, là chuyển thế của Liên Hoa Sinh, bí điển “Thần Quỷ Di Giáo” thế kỷ XII có tiên đoán. Nguyên quốc tịch Bhuntan, dân tộc Monpa, sau khi ra đời một năm mới có người biết, là con cả trong nhà, cha mẹ tin thờ Hồng Giáo, tức là phái Nyingma do đại sư Liên Hoa Sinh sáng lập.

Năm 1684, 2 tuổi. Được bí mật an trí ở địa phương, bắt đầu học kinh ở tu viện Basang.

Năm 1688, 6 tuổi. Cha qua đời, bị cậu và cô kỳ thị, theo mẹ dời đến Urgelling[2] gần Tawang.

[2] Thuộc bang Arunachal Pradesh, Ấn Độ.

Năm 1696, 14 tuổi. Công khai thân phận Phật sống của Tsangyang Gyatso. Khang Hy chinh phạt Galdan[3].

[3] Galdan (Cát Nhĩ Đan, 1644-1697): một vị đại hãn của Hãn quốc Dzungar.

Năm 1697, 15 tuổi. Đệ Ba tâu lên triều Thanh, Đạt Lai thứ 5 đã mất. Ngày 17 tháng 9, nghênh đón đến Nagarzê, thọ giới từ Ban thiền thứ 5 Lobsang Yeshe, pháp hiệu Tsangyang Gyatso (Phạn Âm Hải), ngày 25 tháng 10 vào cung Potala tọa sàng, trở thành Pháp Vương[4] của Hoàng Giáo (Phái Gelug). Sau khi tọa sàng khắc khổ học kinh ba năm.

[4] Pháp Vương: Từ xưng hô của tín đồ Phật giáo Tây Tạng đối với các vị Lạt Ma chuyển thế.

Năm 1701, 19 tuổi. Các thủ lĩnh bộ lạc Mông Cổ như Lha-bzang Khan không thừa nhận Đạt Lai thứ 6.

Năm 1702, 20 tuổi. Du ngoạn Shigatse, ở tu viện Tashilhunpo yêu cầu Ban Thiền thứ 5 trả giới sa di hoàn tục, trước đó đã bày tỏ cự tuyệt thọ giới tỳ khưu. Sự việc xem “Truyện ký cuộc đời bí mật của Tsangyang Gyatso” do Đệ Ba viết.

Năm 1703, 21 tuổi. Khang Hy phái khâm sai đến Lhasa tra nghiệm pháp thể của Đạt Lai thứ 6.

Năm 1705, 23 tuổi. Đệ Ba bị Lha-bzang Khan giết, các sư biện hộ Đạt Lai thứ 6 là “lạc lối bồ đề”, “du hý tam muội”.

Năm 1706, 24 tuổi. Ngày 17 tháng 5 bị áp giải lên phía bắc, qua tu viện Drepung được các sư cứu ra, lại lần nữa bị bắt. Ở hồ Thanh Hải tung tích không rõ. Đồn rằng đến động Quan Âm núi Ngũ Đài.

Các sự việc dưới đây căn cứ “Bí truyện Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso” do đệ tử Ngawang Lhundrup Daji viết.

Năm 1707, 25 tuổi. Yeshey Gyatso, con riêng của Lha-bzang Khan được lập làm Đạt Lai thứ 6.

Năm 1708, 26 tuổi. Tháng 7, Kelzang Gyatso linh đồng ở Litang chào đời. Tsangyang Gyatso du ngoạn Khang Định, chơi mười mấy ngày ở núi Nga My, vùng Kham ôn dịch phát tác, bị nhiễm bệnh đậu mùa.

Năm 1709, 27 tuổi. Qua Litang, Batang, bí mật trở về Lhasa, trở về khu vực Lhoka.

Năm 1711, 29 tuổi. Bị cầm tù ở Dagzê[5], sau trốn thoát.

[5] Dagzê (Đạt Tư): một huyện của địa cấp thị Lhasa, Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc.

Năm 1712, 30 tuổi. Du ngoạn Kathmandu củaNepal, chiêm ngưỡng biểu tượng Linga của thần Shiva. Tháng 10, theo quốc vương đến Ấn Độ hành hương.

Năm 1713, 31 tuổi. Du ngoạn Ấn Độ. Tháng 4, leo núi Linh Thứu. Gặp voi trắng.

Năm 1714, 32 tuổi. Ở tu viện Tabu, huyện Nang, Lhoka, mọi người xưng là đại sư Tabu. Đầu năm, Kelzang Gyatso được chuyển đến Dêgê[6] ở phía bắc vùng Kham, sau đó, theo lệnh vua Khang Hy đưa đến tu viện Kumbum ở phụ cận Tây Ninh.

[6] Dêgê (Đức Cách): một huyện thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Garzê (Cam Tư), tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.

Năm 1715, 33 tuổi. Lần nữa bí mật trở về Lhasa. Kelzang Gyatso xuất gia ở Litang. Ngawang Lhundrup Daji chào đời.

Năm 1716, 34 tuổi. Mùa xuân, dẫn mười hai nhà sư của tu viện Mulu Lhasa đến Alxa, quen biết gia đình Ngawang Lhundrup Daji.

Năm 1717, 35 tuổi. Lha-bzang Khan bị quân đội Dzungar giết, Đạt Lai thứ 6 giả bị giam cầm trong tu viện núi Dược Vương, bảy năm sau qua đời. Mùa xuân, Đại Lai Lạt Ma thứ 6 cùng mười hai người tùy tùng đến doanh Định Viễn (nay là Bayanhaote) tấn kiến vương gia Alxa A Bảo và công chúa Đạo Cách Thậm, được phê chuẩn xây sửa tu viện Zhaohua. Trung thu, Tsangyang Gyatso đi cùng công chúa Đạo Cách Thậm vào kinh nửa năm, ngụ tại vương phủ Alxa ở Thập Sát Hải. Thăm Hoàng Tự, Hoàng Cung, xem Phật lớn làm bằng gỗ đàn hương do Yeshe Gyatso dâng ở cung Ưng Hòa. Ở cửa Đức Thắng, nhìn thấy con của Đệ Ba bị áp giải vào kinh.

Năm 1718, 36 tuổi. Mùa xuân, trở về Alxa.

Năm 1719, 37 tuổi. Triều Thanh dẹp yên Dzungar, chính thức thừa nhận Kelzang Gyatso là Đạt Lai thứ 6.

Năm 1720, 38 tuổi. Ngày 15 tháng 9 Kelzang Gyatso linh đồng ở Litang tọa sàng làm Đạt Lai, hơn trăm ngàn người Lhasa lễ bái.

Năm 1721, 39 tuổi. Công viên Long Vương Đàm[7]lập “Bia dẹp yên Tây Tạng” của vua Khang Hy.

[7] Công viên Long Vương Đàm nằm ở Lhasa, Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc.

Năm 1723, 41 tuổi. Thân vương Đan Tăng ở Thanh Hải phản loạn, vua Khang Hy phái Niên Canh Nghiêu[8], Tổng Đốc Xuyên Thiểm dẹp phản, tu viện Tabu bị đốt.

[8] Niên Canh Nghiêu (1679-1726): một đại thần thời nhà Thanh, có vai trò quan trọng trong suốt hai triều Khang Hy và Ung Chính.

Năm Ung Chính[9] thứ 5, năm 1727, 45 tuổi. Xây lại tu viện Tabu (tức tu viện Shimen).

[9] Ung Chính (1678-1735): vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Thanh, trị vì từ năm 1723 đến 1735, tên húy là Dận Chân, miếu hiệu Thanh Thế Tông. Là một vị vua siêng năng, cần kiệm và có tinh thần chống tham nhũng.

Năm 1730, 48 tuổi. Ở Lan Châu[10], cầu chúc cho đại quân của Nhạc Trung Kỳ[11] chinh phạt Dzungar, làm phép bảy ngày.

[10] Lan Châu: thủ phủ tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.

[11] Nhạc Trung Kỳ (1686-1754): một tướng lĩnh thời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long nhà Thanh.

Năm 1733, 51 tuổi. Mùa hè, động thổ sửa tu viện Zhaohua.

Năm 1735, 53 tuổi. Tự gom mười ngàn lạng bạc ròng, cử Ngawang Lhundrup Daji đến Tây Tạng theo Ban Thiền học kinh.

Năm Càn Long thứ nhất, năm 1736, 54 tuổi. Từ Alxa dời đến Enjianle thuộc hồ Thanh Hải ở chín năm.

Năm 1737, 55 tuổi. Ban Thiền thứ 5 Lobsang Yeshe viên tịch.

Năm 1738, 56 tuổi. Mùa thu, Ngawang Lhundrup Daji tinh thông tất cả luận lý kinh văn, trở về Alxa.

Năm 1739, 57 tuổi. Tu viện Zhaohua cử hành pháp hội cầu nguyện quy mô to lớn, nghênh mời Tsangyang Gyatso ngồi pháp tọa tám sư tử, chủ trì pháp sự năm ngày đêm.

Năm 1743, 61 tuổi. Tu viện Tabu xây xong, trải qua thời gian mười sáu năm.

Năm 1745, 63 tuổi. Từ Enjianle hồ Thanh Hải trở về Alxa, cuối tháng 10, nhiễm bệnh.

Năm 1764, 64 tuổi. Ngày 8 tháng 5, tọa hóa ở tu viện Chengqing, Alxa, hưởng thọ 64 tuổi.

Năm 1747, nhục thân của Đạt Lai thứ 6 được dời đến bên hồ Gao’erlamu, tu viện Zhaohua lập tháp thờ cúng.

Năm 1751, triều Thanh hạ lệnh cho Kelzang Gyatso phụ trách quản lý chính quyền địa phương Tây Tạng. Chính quyền chính trị tôn giáo hợp nhất bắt đầu.

Năm 1756, bắt đầu xây dựng tu viện Guangzong(Nam Tự), và dời toàn bộ tu viện Zhaohua đến địa chỉ tu viện Guangzong hiện nay.

Năm 1757, đệ tử Ngawang Lhundrup Daji viết xong “Bí truyện”, Đạt Lai thứ 7 viên tịch. Tu viện Guangzong (Nam Tự) trong núi Hạ Lan xây xong, được tôn làm Thượng Sư. Trong tu viện thờ cúng tháp chứa nhục thân của Đạt Lai thứ 6, mãi đến năm 1966 vẫn còn.

Năm 1760, triều Thanh ban tên “Tu viện Guangzong” cho Nam Tự.

Năm 1779, Ban Thiền thứ 6 từ Tây Tạng đến Nhiệt Hà[12] chúc mừng đại thọ bảy mươi tuổi của Càn Long, tháng 11 bệnh mất ở Bắc Kinh.

[12] Nhiệt Hà (Rehe, Jehol): một tỉnh cũ của Trung Quốc, nằm ở phía bắc Vạn lý trường thành, phía tây Mãn Châu Lý, phía đông Mông Cổ, thủ phủ là thành phố Thừa Đức (nay thuộc tỉnh Hà Bắc).

Năm 1783, vua Càn Long phong Jamphel Gyatso làm Đạt Lai thứ 8.

Năm 1908, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 Thubten Gyatso[13] vào kinh, chiêm ngưỡng động Quan Âm núi Ngũ Đài.

[13] Thubten Gyatso (Thổ Đăng Gia Mục Thố, 1876-1933): Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

Năm 1930, bản dịch Hán - Anh của Vu Đạo Tuyền[14] xuất bản.

[14] Vu Đạo Tuyền (1901-1992): nhà Tạng học, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo, người Sơn Đông, Trung Quốc.

Năm 1938, Tăng Giam sáng tác “Bài từ về cung Potala”.

Năm 1981, Nhà Xuất bản Dân tộc xuất bản “Tình ca và Bí truyện của Tsangyang Gyatso” do Trang Tinh dịch. Sư sãi của Nam Tự cử hành pháp hội cầu nguyện mùa hè tại nền cũ của chùa, xây lại tháp mới thờ cúng tro cốt của Đạt Lai thứ 6 vốn được chăm chút cất giữ.

Năm 1982, Nhà Xuất bản Nhân dân Tây Tạng xuất bản “Nghiên cứu Tsangyang Gyatso và tình ca của Ngài”.

Năm 2010, Nhà Xuất bản Văn hóa Nghệ thuật xuất bản “Bất phụ Như Lai bất phụ khanh[15]”.

[15] Sách của tác giả Diêu Mẫn.

Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Kaitoukiddo1412 – Tiểu Bảo Bình
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)