Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XIV - Chương 308 - 313
308. Nhà sư chết[1]
[1] Tử tăng.
Đạo sĩ nọ đi vân du, chiều tối ghé vào một ngôi chùa vắng. Thấy tăng phòng đóng chặt, bèn trải tấm bồ đoàn ra ngồi dưới hành lang. Đêm khuya chợt nghe tiếng mở cửa, thấy một nhà sư bước ra, toàn thân đẫm máu, nhưng như không nhìn thấy đạo sĩ, đạo sĩ cũng làm như không nhìn thấy. Nhà sư đi thẳng tới Phật điện, lên chỗ tòa sen, ôm đầu tượng Phật mà cười, hồi lâu mới đi. Đến sáng đạo sĩ thấy cửa phòng vẫn đóng chặt như cũ lấy làm lạ, vào trong thôn kể lại việc mình trông thấy. Mọi người tới chùa phá cửa vào xem, thì thấy nhà sư bị giết nằm trên mặt đất, nệm chiếu trong phòng xáo trộn vương vãi, biết là bị kẻ cướp vào giết. Lại ngờ chuyện hồn nhà sư cười là có lý do, bèn cùng nhau tới xem xét đầu tượng Phật, thấy phía sau đầu tượng có vết, cạy ra thấy bên trong giấu hơn ba chục lượng vàng, bèn lấy để chôn nhà sư.
Dị Sử thị nói: Lời ngạn có câu “Đồng tiền liền khúc” ruột thật không phải sai! Phàm người ta nhịn ăn nhịn mặc mà không biết để lại của cải cho ai, cũng đã là ngây ngốc rồi, huống chi nhà sư còn không có cả kẻ thừa kế của cải sao! Sống không chịu ban phát làm ơn, chết còn nhìn lại mà cười, bọn đầy tớ của tiền bạc đáng than thở tới như thế đấy? Phật nói “Một đồng không chịu bỏ, chỉ có nghiệp theo mình”, chắc là nói nhà sư ấy chăng!
309. Trâu bay[1]
[1] Ngưu phi.
Anh Mỗ người trong huyện mua được một con trâu rất khỏe. Đêm nằm mơ thấy trâu mọc cánh bay mất, cho là điềm không hay, sợ là sẽ bị mất, bèn dắt ra chợ bán lỗ, lấy khăn bọc tiền lại quàng lên vai. Về được nửa đường thấy có con chim ưng đang ăn con thỏ, tới gần cũng rất dạn không bay. Y vồ con ưng, lấy hai đầu khăn buộc chân buộc cánh nó. Con ưng giẫy giụa một lúc mối khăn buộc cánh lỏng ra, nó mang cả khăn vùng bay mất, mang cả tiền đi. Mỗ cứ nói rằng số trời đã định thì không sao tránh khỏi, nhưng nếu không bị giấc mơ làm cho ngờ vực, không tham của rơi trên đường, thì con thú chỉ biết đi làm sao mà bỗng chốc bay được!
310. Bói gương[1]
[1] Kính thính.
Anh em họ Trịnh ở huyện Ích Đô (tỉnh Sơn Đông) đều là kẻ sĩ có tài văn chương. Người anh sớm nổi tiếng, cha mẹ thương yêu quá đáng, vì vậy yêu thương cả con dâu. Người em rủi ro nên cha mẹ không những không thích mà còn ghét bỏ cả con dâu thứ, đối xử tàn tệ, thành ra tình trạng bên thương bên ghét rất rõ ràng trong nhà. Vợ người em cứ nói chồng cũng là đàn ông, sao lại không thể tranh giành cho vợ con, rồi bỏ không chịu ngủ chung nữa. Người em vì thế phẫn chí ra sức học tập, cũng được nổi tiếng, cha mẹ mới dần dần nhìn ngó tới, nhưng rốt lại cũng không được thương yêu như người anh. Người con dâu thứ rất mong mỏi ở chồng, năm ấy gặp kỳ thi hương, đêm trừ tịch lén đi bói gương[2]. Thấy có hai người đùa giỡn xô đẩy nhau, nói: “Ngươi cũng ra cho mát.”
[2] Bói gương: nguyên văn là “kính thính”, một hình thức bói toán dân gian ở Trung Quốc, người bói bưng gương đứng trước bàn thờ Táo thần cầu khấn rồi bước ra nghe lời người ta nói để xem điềm may rủi.
Người con dâu thứ về nghĩ mãi không rõ là điều may hay rủi nên cũng để đó. Thi xong hai anh em cùng về, lúc ấy đang là mùa hè rất nóng bức, hai người con dâu lúi húi trong bếp nấu cơm cho thợ cày, nóng nực rất khổ. Chợt có người báo danh tới nhà báo tin người anh thi đỗ. Người mẹ xuống bếp, nói với con dâu lớn: “Con trai lớn thi đỗ rồi, con ra ngoài cho mát.” Người con dâu thứ vừa giận vừa tủi, chảy nước mắt thổi lửa. Giây lát lại nghe báo người em cũng thi đỗ, người con dâu thứ ném luôn cái que chọc lò xuống đứng lên nói: “Ta cũng ra ngoài cho mát...” Lúc ấy trong lòng chất chứa hờn oán nên bất giác buột miệng nói thế, đến khi nghĩ lại mới biết chuyện bói gương đã nghiệm.
Dị Sử thị nói: Nghèo hèn thì cha mẹ không cho là con, việc ấy cũng có. Chốn trường thi thì không phải chỗ phẫn khích là thành công được, nhưng vợ người em phẫn khích khuyên chồng, cũng vì oán vọng không biết dựa vào đâu. Nhưng nếu người em không thi đỗ khoa ấy mà vợ cũng ném cái que chọc lò xuống đứng lên, thì mới thật là chuyện hay ngàn thuở vậy.
311. Dịch trâu[1]
[1] Ngưu hoàng.
Trần Hoa Phong người huyện Mông Sơn (tỉnh Sơn Đông) ngày hè nóng nực ra ngủ dưới gốc cây ngoài đồng. Chợt có một người vội vã đi tới, quấn một cái khăn quanh đầu, đi mau tới dưới bóng cây, ngồi xuống một tảng đá quạt lấy quạt để, mồ hôi chảy ròng ròng. Trần ngồi dậy cười nói: “Bỏ cái khăn ra thì không quạt cũng mát.” Khách nói: “Bỏ ra thì dễ, nhưng đội lên thì khó.” Trần cùng khách trò chuyện, thấy học hành rất uẩn súc. Kế khách nói: “Bây giờ chẳng mong ước điều gì, chỉ cần có rượu ngon ngâm lạnh, uống vào một hơi vừa thơm vừa mát, vào tới ruột gan rồi thì có thể đỡ nóng được một nửa.” Trần cười nói: “Chuyện đó dễ lắm, ta xin lo cho ông,” rồi nắm tay khách nói: “Tệ xá cũng gần đây, xin mời ghé qua chơi,” khách cười đi theo.
Vào tới nhà, Trần lấy rượu cất dưới hầm đá ra, lạnh tê cả răng. Khách cả mừng, uống liên tiếp một hơi hơn chục chén. Trời vừa xế chiều chợt mưa xuống, Trần bèn thắp đèn trong phòng lên. Khách cởi khăn ra cùng ngồi, trò chuyện một hồi, Trần thấy phía sau gáy khách lúc lúc lại lóe sáng, lấy làm ngờ vực. Không bao lâu khách say, lăn ra ngủ ở giường, Trần đẩy ngọn đèn tới gần nhìn trộm, thấy sau vành tai khách có một cái lỗ sâu hoắm to bằng cái chén, miệng lỗ có mấy mảnh da che khuất như cánh cửa, bên ngoài có lớp da mềm rủ xuống che khuất, trong thì trống rỗng. Trần sợ lắm, lén nhấc búi tóc khách lên, lấy trâm vạch lớp da xem, thấy có một vật như con trâu nhỏ theo chỗ tay khều bay ra, phá tung cửa sổ mà đi. Trần hoảng sợ không dám vạch nữa. Vừa định quay đi, khách đã tỉnh dậy, hoảng sợ nói: “Ngươi lén xem chuyện trộm kín của ta, thả con trâu dịch ra, làm sao bây giờ.” Trần lạy hỏi nguyên do, khách đáp: “Đã tới nước này thì còn ngại ngùng gì nữa. Nói thật với ngươi, ta là ôn thần lục súc đây, vừa rồi anh thả con trâu dịch ra, chỉ sợ là trong vòng trăm dặm trở lại đây sẽ không còn giống trâu nữa.”
Trần vốn làm nghề nuôi trâu, nghe thế cả sợ, lạy xin chỉ cách giải trừ. Khách nói: “Ta chắc không tránh được tội rồi, còn cách để giải trừ thì có sâm đắng giã ra là hiệu nghiệm nhất, nhưng phải truyền ra cho nhiều người, không nên giữ riêng thì được rồi.” Nói xong chào ra cửa, lại vốc đất vun lên ở chân vách, nói: “Mỗi lần dùng một viên cũng công hiệu,” rồi chắp tay chào, chớp mắt không thấy đâu nữa. Không bao lâu sau, trâu bò trong vùng quả nhiên mắc bệnh, bệnh dịch lan ra. Trần muốn thủ lợi, giữ kín bài thuốc không chịu truyền rộng ra, chỉ nói với em. Người em làm thử thì công hiệu như thần, nhưng Trần làm thuốc đổ cho trâu mình uống thì vô hiệu, nuôi hai trăm con đều chết sạch, chỉ còn bốn năm con trâu cái già, cũng nối nhau lăn ra sắp chết. Trần buồn rầu không biết làm sao, chợt nhớ tới vốc đất ở chân vách, cũng nghĩ chưa chắc đã có công hiệu, nhưng cũng lấy cho trâu uống. Qua đêm thì trâu đều đứng dậy cả, mới sực hiểu rằng sở dĩ thuốc không công hiệu là vì thần phạt mình có ý riêng tư. Vài năm sau, trâu cái sinh đẻ, đàn trâu của Trần mới dần dần được như cũ.
312. Chu Tam
Trương Thái Hoa ở châu Thái An (tỉnh Sơn Đông) là một viên lại giàu có. Nhà bị hồ quấy phá không sao chịu nổi, tìm mọi cách giải trừ đều vô hiệu, trình với quan Châu doãn, quan cũng không biết làm sao. Lúc bấy giờ ở phía đông châu cũng có hồ tới ở nhà dân, mọi người đều nhìn thấy, là một ông già tóc bạc, nghe nói trò chuyện cư xử với người trong nhà đều theo lễ của loài người. Ông ta tự xưng là thứ hai, mọi người đều gọi là Hồ Nhị gia. Gặp lúc có người Chư sinh tới yết kiến quan Châu doãn, kể lại chuyện ấy, quan bày kế cho viên lại, bảo tới hỏi ông ta. Lúc ấy trong thôn Đông có người làm lính lệ ở châu, viên lại tới hỏi thăm, quả có chuyện ấy thật, bèn cùng nhau về nhà người lính lệ, bày tiệc mời Hồ. Hồ tới, chào hỏi ăn uống không khác gì người thường, viên lại nhân đó nói điều mình mong muốn.
Hồ nói: “Ta vốn biết rõ, nhưng không thể giúp ông được. Người bạn ta là Chu Tam đang ngụ cư ở Nhạc miếu, có thể giúp được, ta xin đi mời giùm ông.” Viên lại mừng rỡ cảm tạ. Lúc chia tay Hồ hẹn với viên lại là sáng mai cứ bày tiệc ở phía đông Nhạc miếu chờ. Viên lại theo lời, quả nhiên Hồ dắt Chu tới. Chu râu xoăn mặt đen, mặc quần áo đi ngựa, uống được mấy chén, hỏi viên lại rằng: “Vừa rồi Hồ nhị đệ đã nói rõ ý ông, nhưng bọn kia rất đông, không thể dỗ dành được, thể nào cũng phải dụng võ. Xin cho ta được tới ở nhờ nhà ông, thì khó nhọc bao nhiêu cũng không dám từ chối.” Viên lại nghe thế, nghĩ thầm bớt được một con hồ thì lại thêm một con hồ, chỉ là lấy tai họa này thay tai họa khác. Còn đang ngần ngừ không dám ưng thuận, Chu đã biết ý, nói: “Ông sợ nhau ư? Ta không phải như chúng, mà còn có túc duyên với ông, xin đừng ngờ vực,” viên lại bèn ưng thuận.
Chu lại dặn sáng mai bảo người nhà đóng cửa ngồi trong phòng, đừng lên tiếng. Viên lại về nhà làm như lời dặn, quả nghe trong sân có tiếng đâm chém ác đấu kịch liệt, hơn một giờ mới yên. Mở cửa ra nhìn, thấy máu lốm đốm đầy cả bậc thềm, trong sân có mấy cái đầu hồ to bằng cái bát. Lại nhìn qua nhà dưới, thì Chu đã ngất ngưởng ngồi ở trong, chắp tay cười nói: “Nhờ ông tin tưởng gởi gắm, nên đã quét sạch bọn yêu nghiệt rồi.” Từ đó Chu ở lại trong nhà, gặp nhau thân mật như chủ khách vậy.
313. Lưu tính[1]
[1] Họ Lưu.
Họ Lưu người trong huyện là kẻ hung dữ. Sau rời huyện Truy tới ở huyện Nghi (đều thuộc tỉnh Sơn Đông), tính cũ vẫn không bỏ, người làng vừa sợ vừa ghét. Lưu có mấy mẫu ruộng liền bờ với ruộng Miêu mỗ, Miêu vốn chăm chỉ, ven ruộng trồng rất nhiều đào. Đào vừa có trái, con Miêu ra vin hái, Lưu tức giận xua đuổi, nói là đào của mình. Đứa con kêu khóc chạy về kể với Miêu, Miêu còn đang kinh ngạc sợ hãi thì Lưu đã tới trước cổng mắng chửi, lại đòi đi kiện. Miêu cười ra dàn hòa, Lưu không biết trút giận vào đâu, tức tối bỏ đi. Lúc ấy trong huyện có Lý Thúy Thạch đi buôn bán ở huyện Nghi, Lưu mang đơn kiện lên huyện thì gặp nhau trong thành. Lý thấy là người cùng huyện vốn quen biết, hỏi là đi đâu. Lưu kể lại, Lý cười nói: “Tiếng tăm của anh mọi người đều biết rồi, ta vốn biết Miêu mỗ rất hòa hoãn hiền lành, đâu dám chiếm đoạt của ai, có phải là anh nói ngược không vậy?” Rồi xé nát đơn kiện của Lưu, kéo Lưu vào quán rồi khuyên giải. Lưu tức tối không chịu, lấy trộm bút mực trong quán rượu viết lại đơn kiện nhét vào bọc, định sẽ đi kiện nữa.
Không bao lâu Miêu cũng tới, kể lại hết mọi việc rồi năn nỉ Lý cứu giúp, nói: “Ta là người nhà quê, nửa đời không gặp bậc quan trưởng, nếu có thể khỏi phải kiện tụng, thì đâu dám giữ mấy gốc đào?” Lý gọi Lưu ra, nói việc Miêu tình nguyện nhường nhịn, Lưu còn chỉ trời vạch đất chửi mắng không thôi, Miêu chỉ lễ phép thưa gởi, không dám cãi lại câu nào. Chuyện xong cùng về, qua bốn năm ngày, thấy người trong thôn đồn rằng Lưu đã chết, Lý ngạc nhiên than thở. Hôm sau Lý có việc ra ngoài, thấy Lưu nghiễm nhiên chống gậy đi tới. Tới nơi, ân cần hỏi thăm, lại mời Lý tới nhà chơi. Lý đi theo, hỏi: “Hôm trước nghe tin dữ, té ra là sai.” Lưu không đáp, chỉ kéo Lý vào thôn, tới nhà, bày rượu ra khoản đãi, mói nói: “Tin đồn hôm trước không sai đâu. Hôm trước vừa ra khỏi nhà, thấy có hai người tới bắt lên gặp quan, hỏi có chuyện gì chỉ nói không rõ. Ta tự nghĩ mình ra vào nha môn mấy mươi năm nay, chẳng sợ gì gặp quan, cũng chẳng sợ hãi gì nên cứ đi theo. Tới công thự thấy người ngồi trên vẻ mặt giận dữ nói: “Ngươi là Lưu Mỗ phải không? Tội ác ngập đầy mà không tự hối, lại còn cướp đoạt của người về làm của mình, loại ngang ngược này thì phải bỏ vào vạc dầu. Một người tra sổ nói: “Người này có làm một điều lành, có thể tha tội.” Người ngồi trên giở sổ xem, dịu nét mặt nói: “Tạm đưa y về.” Mấy mươi người đồng thanh quát đuổi ra, ta hỏi: “Vì việc gì mà bắt ta tới, vì việc gì mà tha ta ra, xin được hỏi rõ.” Viên lại cầm sổ bước xuống chỉ cho xem một hàng, trên ghi năm Sùng Trinh thứ 13 (1640) thời Minh bỏ ra ba trăm đồng cứu một người, giúp cho vợ chồng họ được đoàn tụ. Viên lại nói: “Nếu không như thế thì hôm nay đã phải chết, đầu thai làm súc vật rồi.” Ta sợ quá bèn theo hai người kia đi ra. Hai người đòi tiền hối lộ, ta tức giận nói: “Không biết rằng Lưu Mỗ ta ra vào nha môn hai chục năm nay, chỉ chuyên cướp đoạt của cải của người khác à? Tại sao lại dám đòi thịt từ miệng cọp già hả?” Hai người không đáp, đưa ta tới thôn rồi chắp tay nói: “Chuyến này bọn ta chưa uống của ngươi hớp nước nào đấy nhé.” Hai người đi rồi, ta vào nhà thì sống lại, té ra đã chết một ngày rồi.”
Lý nghe xong lấy làm lạ, nhân hỏi rõ đầu đuôi chuyện Lưu làm điều lành. Trước là vào năm Sùng Trinh thứ 13 mất mùa lớn người ta phải ăn thịt nhau. Lúc ấy Lưu làm chức Chủ Bổ lệ ở huyện Truy, gặp hai người đàn ông đàn bà khóc lóc rất thảm thiết, hỏi thăm thì họ đáp: “Vợ chồng mới lấy nhau được hơn một năm, năm nay mất mùa, không thể cả hai cùng sống nên thương tâm.” Lát sau Lưu lại thấy họ trước quán bán dầu, như đang cãi cọ gì đó. Tới gần hỏi han, chủ quán họ Mã nói: “Hai vợ chồng này đói sắp chết, hàng ngày vẫn xin ta bã dầu ăn qua ngày, nay lại muốn bán vợ cho ta, nhưng ta đã mua cả chục người trong nhà rồi. Cũng có gì quan trọng đâu, rẻ thì ta mua, không thì thôi. Kể cũng buồn cười, cứ đem tới ép người ta mua.” Người đàn ông nói: “Năm nay gạo thóc đắt như ngọc, tính ra nếu không có đủ ba trăm đồng thì không đủ phí tổn đi tránh nạn đói. Vốn là muốn cả hai người cùng được sống, chứ nếu bán vợ mà cũng không thoát chết thì cần gì. Thật không dám nói giá cả chỉ mong ông làm việc để đức lại cho con cháu thôi.” Lưu thương xót, hỏi Mã trả bao nhiêu, Mã đáp: “Hôm nay giá đàn bà chỉ có một trăm.” Lưu xin đừng nói bớt, lại xin giúp thêm một nửa cho đủ số ba trăm, Mã nhất định không chịu. Lưu nổi nóng nói với người đàn ông rằng: “Y keo kiệt như thế chẳng đáng nói nữa, ta xin tặng đủ số anh cần, nếu có thể tránh nạn đói mà còn được vợ chồng thì càng hay!” Bèn dốc túi đưa tiền cho, hai vợ chồng khóc lạy rồi đi. Lưu kể xong, Lý cực lực ca ngợi.
Từ đó Lưu bỏ hẳn nết cũ, đến nay đã bảy mươi tuổi vẫn còn khỏe mạnh. Năm rồi Lý tới thôn, thấy Lưu đang cãi cọ với người ta, mọi người xúm quanh can ngăn mà không được. Lý cười gọi: “Ngươi lại muốn kiện giành cây đào phải không?” Lưu vội vàng thay đổi sắc mặt, khép nép thu tay lại bỏ đi.
Dị Sử thị nói: Anh em Lý Thúy Thạch đều có tiếng là giàu có nhưng Thúy Thạch tính thuần hậu, ưa làm điều lành, chưa từng kiêu ngạo rằng mình giàu có, cũng là bậc quân tử thành thật cẩn thận vậy. Xem việc ông can chuyện tranh cãi, khuyên làm điều lành thì con người bình sinh thế nào có thể biết được. Lời xưa nói: “Kẻ giàu có không nhân đức”, ta không biết Thúy Thạch là kẻ trước nhân đức rồi sau giàu có hay là trước giàu có rồi sau nhân đức?
Phụ: Một truyện trong Truy Xuyên Chí, Nghĩa Hậu truyện[3]
[3] Truy Xuyên Chí Nghĩa Hậu truyện nhất tắc.
Lý Vĩnh Khang tự Thúy Thạch, tính thuần hậu, hay cứu kẻ nạn, ưa giúp kẻ nghèo. Cách huyện thành Truy Xuyên ba mươi dặm về phía tây có đường hang núi, dân ở đó bắc cầu để tiện qua lại. Cầu bắc ngang hai bờ vực, tính ra phí tổn tới hàng ngàn đồng vàng, Khang phá gia tài tới giúp đỡ mới làm được. Lại quyên tiền sửa cầu ở thôn Tiêu, chưa xong thì qua đời, em là Vĩnh Dự hết sức giúp đỡ làm cho xong để noi chí anh. Trong làng có nhà thế hào độc ác họ Mỗ ở cạnh nhà họ Miêu, Miêu trồng mấy gốc đào, con Miêu ra hái trái, Mỗ giận dữ nói là đào của mình, định kiện lên quan. Khang gặp biết chuyện, xé nát đơn kiện, ra sức can ngăn, Mỗ còn tức giận không chịu thôi, kế bị âm phủ trừng phạt nên hối hận tỉnh ngộ, rất cảm ơn Khang. Bài Long Tuyền ký của quan Thái sử họ Đường, bộ Liêu Trai chí dị của viên Minh kinh họ Bồ[4] đều có chép. Quan Tri huyện là ông Dương My viết tặng bốn chữ “Danh cao nguyệt đán” (Nổi tiếng như vầng trăng rằm) để biểu dương, người trong huyện đều cho là vinh dự.
[4] Bộ Liêu Trai chí dị của viên Minh kinh họ Bồ: tức Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh.