Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XVI - Chương 433
11. Năm chuyện về rồng[1]
[1] Long ngũ tắc.
I
Viên Tuyên Tứ nói ở Tô Châu, lúc mưa rào trời tối, sấm sét nổ ran. Mọi người đều nhìn thấy rồng trên mây buông xuống, vẩy trên thân rung động, trong vuốt nắm một cái đầu người, râu tóc đều nhìn thấy rõ. Giây lát bay vào trong mây đi mất, nhưng không nghe có ai bị mất đầu.
II
Tục truyền rồng lấy nước dưới sông làm mưa, ngờ rằng điều đó chỉ là truyền thuyết mà thôi. Từ Đông Si nam du, ghé thuyền vào bờ sông, nhìn thấy một con rồng xanh giữa đám mây buông xuống, lấy đuôi khoắng vào nước sông, sóng nước nổi lên ầm ầm, theo thân rồng mà bay lên. Từ xa nhìn thấy ánh nước sáng loáng, rộng như tấm lụa ba thước. Giây lát đuôi rồng rút lên, mặt nước cũng yên ắng. Lát sau mưa đổ xuống như trút.
III
Người đàn bà họ Lý ở thôn Hình huyện Truy Xuyên, chồng chết lúc đang có thai, bụng lúc chợt trướng lên như cái vò, lúc lại thu lại bằng nắm tay. Đến khi lâm bồn, suốt một ngày một đêm không sinh được. Nhìn tới, thấy một cái đầu rồng, vừa thấy người là thụt vào trong. Người nhà cả sợ, không dám tới gần. Có bà đỡ họ Vương, thắp hương võ bộ, niệm ấn bắt quyết, không bao lâu cái thai lọt ra, không thấy rồng đâu nữa. Chỉ có vài cái vẩy rơi xuống, đều to như đồng tiền. Sinh được một đứa con gái, da thịt trong suốt như thủy tinh, nhìn thấy cả tạng phủ trong người.
IV
Huyện Bác có người dân tên Vương Mậu Tài, sáng sớm thăm ruộng, nhặt được ở bờ ruộng một đứa nhỏ khoảng bốn năm tuổi, mặt mũi đẹp đẽ ăn nói khôn ngoan, bèn đưa về nhà nuôi làm con, linh thông phi thường. Được bốn năm năm có một nhà sư tới nhà đứa nhỏ nhìn thấy, hoảng sợ bỏ trốn biệt tích. Nhà sư nói với Vương: “Đó là một trong năm trăm con rồng nhỏ trong ao ở Hoa Sơn, bỏ trốn tới đây.” Rồi lấy ra một cái bát đổ nước vào, quả nhiên nhìn thấy một con rắn trắng nhỏ bơi lội trong đó, kế cất bát ra đi.
V
Di kiên chí chép: Trong niên hiệu Hoàng Thống nhà Kim (1141-1149), phủ Hà Trung đại hạn. Thái thú là Lý Kim Ngô cầu đảo không có kết quả. Nghe nói sư Từ Huệ ở chùa Tây Nham giới luật cao thâm, được đồ đệ ngưỡng mộ, bèn tới mời. Sư nói: “Thân già không có gì có thể làm cảm động trời đất, nhưng hàng ngày lúc thuyết pháp đều thấy có một ông già tới nghe, không biết từ đâu tới, ngờ đó là rồng nên cầu khẩn y. Nhưng phải là Kim Ngô sáng mai tới đây, thành khẩn mà chờ.” Lý nói: “Vâng.” Quả nhiên ông già lại tới. Lý đang nói chuyện với nhà sư, nhìn thấy ông ta bước vào chùa, lập tức thắp hương trải chiếu, sai tả hữu xốc nách dìu vào, quỳ xuống lạy lục bày tỏ ý nguyện. Ông già hoảng sợ ngăn lại nói: “Sứ quân quỳ lạy một ông già trong núi, xin hỏi có chuyện gì?” Lý nói: “Trời hạn gây tai họa, ngũ cốc không chín, muôn dân sẽ không sao sống nổi. Xin Long quân nhân từ, ban cho mưa ngọt, sẽ xin lập đền thờ tự, bốn mùa cúng tế để làm rõ uy linh của thần, xin thần thương cho.”
Ông già im lặng, lát sau chau mày than thở: “Ồ, người tiết lộ thiên cơ của ta là nhà sư, không biết ta chết lúc nào đây.” Bèn nói với Lý: “Sứ quân đừng lo, ta xin đem cái chết để báo đáp.” Rồi ngoảnh lại sư nói: “Ta nay vì sư mà đắc tội với trời, nhất định sẽ bị tru diệt, ta sẽ phải chết ngay, thân rơi xuống đất, nhưng không ra khỏi đất này. Xin sư chứng minh, sai dân toàn quân làm đàn tế bảy ngày bảy đêm, ngõ hầu đền đáp công đức, có thể được siêu thăng.” Sư ưng thuận, ông già bèn ra đi. Lúc ấy có một trận mưa đổ xuống ba ngày ba đêm. Ngu Khanh ngoài thành báo có con rồng chết rơi xuống chân núi. Lý dắt hết sĩ thứ, triệu một ngàn nhà sư tới đó, dựng đàn trường, mời Từ Huệ lên diễn pháp. Việc xong, thấy con rồng hiện thân trên không, nói tiếng người cảm tạ: “Ta tuy bị trời giết, nhưng nhờ pháp lực cứu trợ, đội ơn diệu pháp vô thương nên đã được làm rồng cõi Bồ Đề.” Lý bèn lập miếu thờ, xin triều đình ban cho biển ngạch, lại đặt tên cho xứ ấy là hang Thương Long.
Lại như bến Dã Ngưu ở Bạch Ba Lạc Kinh gần miếu Cửu thiên huyền nữ. Trong niên hiệu Hoàng Thống nhà Kim, đêm thu nước tràn, cư dân bị lụt chết đuối, mười người có tới sáu bảy. Người phía dưới bến thấy một bầy thuồng luồng vẫy vùng trong hang vực, xô bờ phá vách, biến chỗ ấy thành ao đầm, nhà cửa đều biến mất, ruộng vườn không còn gì. Mưa lớn năm ngày năm đêm không ngớt, chợt có mấy mươi con trâu trên đỉnh núi theo dòng trôi xuống đánh nhau với thuồng luồng ở chân núi. Mây đen mờ mịt, ánh lửa chốc chốc lóe lên, qua một đêm trời tạnh, nước sông lại trở về dòng cũ. Có một con thuồng luồng dài mười trượng chết dưới cổng đền. Mạnh quân Thái thú Lạc Kinh dẫn đầu sĩ dân hai quận Lạc Dương Hà Dương trai giới mang cỗ tam sinh tới bờ sông cúng tế. Giây lát có con rồng xuất hiện trên mây, vươn cổ như tới hưởng. Hàng vạn người ngẩng nhìn, mới biết đó là vật đã biến thành trâu giết thuồng luồng. Bèn lập miếu thờ ở chỗ ấy. Chu Tùng Long kể lại như thế.
12. Bạch Liên giáo
Tư Hồng Nho thủ lĩnh Bạch Liên giáo vốn là nhà nông. Cày ruộng ở chân núi, được một pho tượng Phật bằng đồng, một thanh kiếm bằng sắt, cùng hai quyển sách tả đạo. Ngày đêm học tập, không gì không tinh thông. Bèn tự xưng là Như Lai xuất thế, mê hoặc dân ngu. Từng có người khách đêm tới nhà, Từ vẽ một cái mặt trăng treo lên vách, cả gian phòng sáng bừng. Trong phòng chất đầy vàng bạc, để người ta tùy ý lấy không ngăn cấm. Không cần tôi tớ, chỉ rút trong túi ra hai hình người giấy cao ba tấc đặt xuống đất, lập tức vươn dài ra cao bằng người, lại thướt tha xinh đẹp. Một người ăn mặc lối văn sĩ, tuấn nhã phong lưu, một người ăn mặc lối võ sĩ, đeo kiếm mang cung. Sai dọn rượu bày tiệc đi lại rất mau lẹ. Lại lấy ra hơn mười người bằng giấy, làm phép đều biến thành mỹ nữ, áo lông xiêm ráng, ca múa mời rượu. Có thể sai khiến quỷ thần, cho dù các loại cây cối loài vật ở núi sông thành thị cũng đều có thể biến ra trong nháy mắt. Lại đưa ra một tấm gương bảo người ta soi vào có thể thấy được số phận trọn đời. Có người thì khăn lượt mũ sa, có người giáp vàng áo thêu, người soi vào không ai không mừng rỡ nhảy nhót.
Tin tức đồn đãi khắp nơi, lúc ấy người ta nối gót nhau tới xin soi, trước cửa đông nghịt. Từ thấy những người bị mê hoặc ngày càng đông, bèn treo gương tự soi, thì thấy đội mũ miện mặc long bào, nghiễm nhiên là bậc vương giả. Bèn phao tin rằng: “Phàm những người ăn mặc đẹp đẽ trong gương đều là người trong hội Long Hoa, được Như Lai định rõ là sẽ làm quan, đều nên gắng sức để tìm phú quý.” Mọi người đều ngạc nhiên mừng rỡ lạy phục xuống. Kế đó chế cờ lệnh cầm tiết việt, không ai không nhảy nhót đi theo, chưa từng có người nào không tuân lệnh. Không đầy vài tháng, đã có hàng vạn người theo về, một dải Đằng Dịch theo gió mà rạp. Về sau đại quân thảo phạt, giết sạch không ai sống sót. Bọn họ vọng tưởng một bước lên trời, mà không tự răn!
Bành Đô ty người Trường Sơn, sống trong quân ngũ nhiều năm, dũng cảm hơn người. Lúc thảo phạt, gặp hai cô gái để bím tóc cặp đao sắt, thúc ngựa dữ, hung hãn dị thường, Bành ra sức tiếp chiến. Hai cô gái không thể tới gần Bành, mà Bành cũng không sao làm hai người bị thương. Từ sáng đến chiều, liên tiếp ba ngày Bành kiệt sức, thở dốc mà chết. Về sau bắt được quân giặc hỏi cung, mới biết hai cô gái ấy là người giấy đao gỗ, ngựa cưỡi chỉ là ghế gỗ mà thôi. Đao ngựa giả mà làm chết tướng quân thật, lạ thay!
13. Sai dịch ma[1]
[1] Quỷ lại.
Hai người sai dịch ở Lịch Thành vâng lệnh Huyện lệnh Hàn Thừa Huyên đi công cán ở quận khác, cuối năm mới về. Trên đường gặp hai người, ăn mặc giống như mình. Cùng đi suốt nửa ngày dần dần nói chuyện với nhau. Hai người kia tự xưng là sai dịch quận Tế Nam. Sai dịch nói: “Những nha dịch trong quận, mười người thì bọn ta biết tới tám chín. Hai ông thì chưa từng quen biết.” Người kia nói: “Nói thật, ta là sai dịch ma trong miếu Thành hoàng, nay là mang công văn tới miếu Đông Nhạc.” Sai dịch hỏi trong công văn viết gì, đáp: “Tế Nam sắp có kiếp nạn lớn, là báo danh những người bị giết.” Sai dịch cả sợ hỏi bao nhiêu người chết, đáp: “Cũng không rõ lắm, nhưng e gần trăm vạn,” sai dịch càng hoảng sợ. Nhân hỏi thời hạn, đáp là tháng giêng. Hai người sai dịch nhìn nhau, tính ngày về tới nơi vừa đúng hôm Trừ tịch. Sợ bị mắc nạn, nhưng chần chừ thì sợ bị khiển trách. Ma nói: “Lỡ hạn tội nhỏ, gặp nạn họa lớn, nên tránh đi chỗ khác, tạm thời đừng về.” Sai dịch theo lời, chia tay theo đường tắt trốn đi. Không bao lâu quân tới có gần trăm vạn người chết, hai người nha lệ được thoát.
Dị Sử thị nói: Theo lành tránh dữ là then chốt trên thế gian. Không ngờ dưới địa phủ cũng như thế. Hay là hai người sai dịch ấy không có tên trong kiếp nạn, nên sai dịch ma khuyên như thế chăng?
14. Khách rết[1]
[1] Yết khách.
Có người thương nhân phương Nam buôn rết, hàng năm tới Lâm Câu, thu mua rất nhiều. Thổ nhân cầm kẹp gỗ vào núi, vào hang sâu lật đá tảng tìm bắt. Hết một năm lại tới, ngụ ở chỗ trọ cũ chợt thấy bồn chồn, lông tóc dựng đứng mà sợ sệt gấp bội lúc bình thường. Chợt nói với chủ nhân: “Làm hại vật sống đã nhiều, nay bị ma rết tức giận, sắp tới giết ta, xin cứu ta với.” Chủ nhân thấy trong phòng có cái vò lớn, bèn bảo vào đó ngồi xổm rồi lấy nắp đậy lại. Không bao lâu, một đại hán bước vào, đầu tóc xõa tung vẻ mặt hung dữ, hỏi chủ nhân: “Người khách phương Nam ở đâu?” Đáp đã ra ngoài. Người ấy vào phòng nhìn quanh, khịt khịt mũi thành tiếng mấy lần, rồi ra cửa đi. Chủ nhân nói: “May ra thì thoát nạn chăng!” Rồi bước vào mở nắp vò lên, thì người khách đã hóa thành máu.
15. Con hồ trong dinh thự Tuân Hóa[1]
[1] Tuân Hóa thự hồ.
Khưu công người Chư Thành, làm Quản đạo đạo Tuân Hóa. Trong dinh thự vốn có nhiều hồ, ở ngôi lầu trong cùng thường xuyên có hồ tụ họp, thỉnh thoảng ra hại người. Chửi mắng lại càng lộng hành, những người làm quan ở đó chỉ làm tiệc cầu khấn, không ai dám xúc phạm. Khưu công đáo nhiệm, nghe thế nổi giận. Hồ cũng sợ công cương nghị, biến thành một bà già, nói với người nhà của công: “Xin bẩm lại với đại nhân là đôi bên không có thù oán gì, xin làm khách ba ngày nữa, sẽ đưa hết già trẻ đi,” Công nghe cũng im lặng không nói gì. Hôm sau duyệt binh xong, bảo đừng tan về, sai đem hết súng ống trong các doanh tới, chĩa quanh lầu cùng phát đạn, trong giây lát ngôi lầu thành đất bằng. Lông da máu thịt trên trời rơi xuống rào rào, nhưng thấy giữa đám mưa máu mịt mờ có một làn khí trắng như đám mây vọt ra. Mọi người nhìn lên nói: “Có một con thoát rồi,” nhưng từ đó trở đi trong dinh thự yên ổn. Sau hai năm, công sai một người đầy tớ tin cẩn mang bạc về kinh để thu xếp việc thăng chuyển. Việc chưa xong, người ấy còn ở lại trong nhà một nha dịch để chờ trả tiền dần duyên[2]. Một hôm chợt có ông già tới kinh đô kêu oan, nói vợ con bỗng dưng bị tàn sát. Lại nói công cắt xén quân lương, nịnh nọt thượng cấp, hiện cất ở nhà Mỗ, có thể làm bằng chứng. Xét sớ hỏi lý, cùng tới nhà người nha dịch kia, tìm kiếm không ra tiền bạc. Ông già nhịp chân xuống đất, công sai hiểu ý, đào xuống quả nhiên lấy được vàng. Trên vàng bạc đều có khắc tên quận giải về. Sau đó tìm ông già, thì đã đi mất. Bắt láng giềng để tìm người ấy, cũng không có ai. Công vì thế mắc nạn. Ông già tức là con hồ trốn thoát vậy.
[2] Tiền dần duyên: dần duyên cũng như dần nghị, chỉ việc quan lại giao du với nhau. Tiền dần duyên tức tiền quan lại tặng biếu để làm quen, đây chỉ tiền hối lộ.
Dị Sử thị nói: Hồ quấy phá người ta, thì rất đáng tru diệt. Nhưng đã sợ mà xin tha, cũng nên giữ trọn lòng nhân, có thể nói công cũng quá nóng nảy vậy. Nếu làm quan ở Quan Tây mà như thế, thì há chỉ một con hồ trắng thù hận thôi sao?
16. Huyện lệnh Ngô huyện[1]
[1] Ngô lệnh.
Ông Mỗ làm Huyện lệnh Ngô huyện, quên mất tên họ, cứng rắn có tiếng. Tục đất Ngô rất trọng thần Thành hoàng, dùng gỗ tạc tượng, may gấm làm áo, dáng vẻ như người sống. Gặp ngày cúng thần thì dân cư góp tiền mở hội, xe kiệu chật đường. Cờ phướn la liệt, trống kèn đàn sáo vừa trỗi vừa đi, ồn ào ầm ĩ, chen chúc trên đường. Thói quen đã thành lệ, không năm nào dám bỏ phế. Ông tới đó, gặp lúc họ đang đi, bèn ngăn lại hỏi, dân ở đó kể lại chuyện. Lại nói tiền bạc đóng góp rất nhiều, ông tức giận, chỉ vào thần trách mấy câu: “Thành hoàng là chủ một huyện, nếu ngu xuẩn ương bướng không thiêng thì là ma. quỷ tối tăm ngu muội, không đáng để thờ phụng. Còn nếu linh thiêng thì phải biết tiếc của cải, sao lại được tốn phí vô ích, làm hao tổn máu mỡ của dân.” Nói xong kéo tượng thần xuống đất, đánh hai mươi roi. Từ đó tập tục lập tức thay đổi. Ông trong sạch ngay thẳng không riêng tư, chỉ là trẻ tuổi thích đùa giỡn. Ở đó hơn một năm, ngẫu nhiên bắc thang trong giải vũ trèo lên bắt chim sẻ, hụt chân rơi xương gãy đùi, kế chết. Người ta nghe thấy trong đền Thành hoàng có giọng ông tức giận lớn tiếng, giống như tranh cãi với thần, mấy ngày không ngớt. Mọi người không quên ơn ông, kéo nhau tới tụ họp, khẩn cầu xin thôi, sẽ xây một miếu riêng, giọng ông liền tắt. Miếu mới cũng gọi là miếu Thành hoàng, xuân thu cúng tế, còn linh thiêng hơn miếu cũ Ngô huyện đến nay vẫn có hai Thành hoàng.
17. Nha dịch sâu mọt[1]
[1] Đố dịch.
Tiến sĩ Lý Khuông Cửu người Trâu Bình làm quan rất liêm khiết công minh. Từng có người nhà giàu bị người ta vu cáo, nha dịch dọa nói: “Quan đòi hai trăm lượng vàng, mau thu xếp cho xong, không thì có tai họa đấy.” Người nhà giàu sợ hãi vâng dạ, thu xếp được một nửa, nha dịch không chịu, người nhà giàu hết sức nài nỉ. Nha dịch nói: “Không phải ta không ra sức, nhưng sợ quan không chịu. Đợi lúc xét xử, ngươi cứ nhìn ta, ta sẽ bẩm lại số này, quan ưng thuận hay không thì cũng có thể biết ta không có ý gì khác.” Giây lát ông xét vụ ấy. Tên nha dịch biết ông không hút thuốc, bèn tới gần hỏi hút thuốc không, ông chỉ lắc đầu. Tên nha dịch bước xuống, nói khẽ: “Vừa rồi nói ra con số, quan lắc đầu không chịu, ngươi thấy rõ chứ.” Người nhà giàu tin thật, càng hoảng sợ, bèn ưng thuận con số lúc đầu. Tên nha dịch biết ông nghiện trà, bèn tới gần hỏi uống trà không, ông gật đầu. Tên nha dịch lấy cớ đi pha trà, lại bước xuống nói khẽ: “Quan ưng thuận rồi, đã gật đầu, ngươi thấy rõ chứ?” Kế vụ ấy xét xong, người nhà giàu quả nhiên được tha. Tên nha dịch lập tức thu tiền, lại đòi thêm tiền tạ ơn. Than ôi, tên nha dịch ấy cũng gian trá thật.
18. Nha dịch[1]
[1] Tạo lệ.
Trong niên hiệu Vạn Lịch, Huyện lệnh Lịch Thành mơ thấy thần Thành hoàng đòi người hầu hạ, lập tức ghi tên tám người nha dịch vào sớ điệp đốt trong miếu. Đến đêm, tám người đều chết. Đầu tiên một người nghe bảy người kia đã chết, trong lòng sợ hãi, cắn ngón tay mà chết. Phía đông miếu có quán rượu, chủ quán vốn quen biết cả tám người. Đêm ấy có một người tới mua rượu, bèn hỏi mời khách nào. Đáp: “Bạn đồng liêu rất đông nên mua một vò, chỉ thiếu họ Tự mà thôi.” Đến sáng, gặp người nha dịch khác, mới biết người ấy đã chết. Tới miếu mở cửa vào thì vò rượu còn đó, rượu bên trong vẫn còn đầy, nhưng mùi vị giống hệt nước lã. Quay về nhìn lại tiền thì đều là tro giấy. Quan huyện bèn đắp tám pho tượng đặt trong miếu, riêng người cắn ngón tay thì pho tượng tươi tắn như người sống. Con cháu tám nhà đều quanh năm cúng tế. Các nha dịch trong huyện nhận chức, trước tiên đều ra đó tế lễ, nếu không ắt sẽ gặp chuyện bị trách phạt.
19. Trư bà long
Trư bà long sản ở Giang Tây, hình dáng như con rồng mà ngắn, có thể bay là đà, thường lên dọc bờ sông bắt ngỗng vịt để ăn. Có người săn được, thì bán thịt cho hai nhà họ Trần họ Kha. Hai họ ấy đều là hậu duệ của Trần Hữu Lượng, nhiều đời ăn thịt trư bà long, chú họ khác thì không dám ăn. Có người khách từ Giang Tây tới, bắt được một con, buộc lại trong thuyền. Một hôm ghé thuyền ở Tiền Đường, dây buộc hơi lỏng, nó chợt nhảy xuống sông, sóng nước nổi lên, thuyền buôn chìm hết.
20. Bạc nén[1]
[1] Nguyên bảo.
Lâm Giang ở Quảng Đông, vách núi dựng đứng, thường có bạc nén khảm vào vách đá. Phía dưới dốc núi sóng lớn, thuyền bè không thể ghé vào. Có người khua mái chèo cố tới gần để khều, thì dính cứng không lay động được. Nếu số người ấy lấy được, thì khều một cái là rơi xuống ngay, quay lại thì đã qua kiếp khác rồi.
21. Vu Tử Du
Người trên bờ biển nói, một hôm trong biển chợt có hòn núi cao nhô lên, người ở đó đều hoảng sợ. Có Tú tài đi nhờ thuyền đánh cá, mua rượu độc ẩm. Đến đêm có một thiếu niên bước vào, mặc áo đội mũ nhà nho, tự xưng là Vu Tử Du, chuyện trò phong nhã, Tú tài rất thích, bèn cùng nhau uống rượu. Đến nửa đêm rời tiệc cáo từ. Tú tài nói: “Nhà ông ở đâu, đêm tối mờ mịt thế này, việc gì phải làm khổ mình.” Đáp: “Ta không phải là người ở đây. Vì sắp đến tiết Thanh Minh, theo đại vương lên mộ. Gia quyến đã đi trước, đại vương tạm nghỉ lại, giờ Thìn sáng mai sẽ lên đường nên phải trở về để lo việc buổi sáng.” Tú tài cũng không biết đại vương là ai. Đưa ra tới đầu thuyền, người ấy nhảy xuống nước bơi đi, mới biết là yêu cá. Hôm sau, giờ Thìn thấy đỉnh núi rung động, trong chớp mắt biến mất, mới biết hòn núi ấy là một con cá lớn, tức cái mà người kia gọi là đại vương. Tục truyền tiết Thanh Minh, cá lớn trong biển dắt con cái đi bái mộ, hay là chuyện có thật chăng? Đầu niên hiệu Khang Hy, dưới biển nổi sóng, có con cá lớn gào thét mấy hôm, tiếng như trâu rống. Kế chết, những người quảy sọt tới xẻ thịt, chen chúc trên đường. Con cá to khoảng một mẫu, chỉ không có tròng mắt, hốc mắt sâu như cái giếng, bên trong đầy nước, người xẻ thịt vô ý rơi vào đó là lập tức chết đuối. Có người nói cá lớn dưới biển bị biếm chức là bị khoét mắt, lấy mắt làm ngọc dạ quang.
22. Em trai Lý Tượng Tiên[1]
[1] Lý Tượng Tiên đệ.
Lý Tượng Tiên ở Thọ Quang, học vấn uyên bác là kẻ sĩ cao khiết ở vùng Hải, Đại. Biết kiếp trước là sư, sinh ra đã sợ bú, trên kia đã kể rõ. Con trai sớm đỗ đạt, nhưng mình chỉ lấy văn học mà sống đến trọn đời. Đó là cái mà Phật gia vẫn nói là phúc nghiệp chưa tu chăng? Người em cũng sớm nổi tiếng, nhưng sinh ra có tật kín, mấy tháng mới động đậy. Lúc động thì bật dậy, không kể gì tới tân khách, từ ngoài la lối bước vào, lúc ấy tỳ nữ bà vú đều tránh mặt. Tới cửa lại khựng lại, không vào phòng mà quay ra. Anh em đều là người kỳ lạ vậy.
23. Núi Vũ Di[1]
[1] Vũ Di.
Núi Vũ Di có vách đá dựng đứng cao ngàn nhận, người ta thường nhặt được trầm hương vàng ngọc chất đống bên dưới. Thái thú nghe chuyện, sai vài trăm người làm thang lên đỉnh để xem chuyện lạ, ba năm mới làm xong. Thái thú lên thang, sắp tới đỉnh thì thấy một bàn chân buông xuống, ngón cái to bằng cái chày giặt áo, lớn tiếng gọi: “Đừng xuống, sắp rơi rồi,” cả kinh vội trèo xuống. Vừa tới đất thì giá gỗ khô mục sụp xuống tan nát không còn gì.
24. Ao Huyền Âm[1]
[1] Huyền Âm trì.
Thạch Hiến người Thái Nguyên, làm nghề buôn bán, thường đi buôn ở phía bắc đất Đại, đưa hàng từ chỗ có tới chỗ không. Một năm vào tháng năm, đang lúc bắt đầu nóng bức, Hiến trên đường từ cửa Nhạn Môn trở về, khát nước muốn uống, nhưng tìm khắp nơi không thấy suối, nhân ngồi nghỉ dưới gốc cây lớn. Chợt thấy một nhà sư, mắt lồi áo vá, diện mạo rất kỳ lạ, thoăn thoắt đi tới nói: “Ta ở phía nam núi Ngữ Đài, có rừng sâu nước đọng, cách xa trần tục, thật là nơi quần tăng tránh nắng. Đàn việt có chịu theo ta tới đó chơi không? Nếu không đi được, ta thấy đàn việt sẽ vì bệnh nhiệt mà chết, há chẳng hối hận sao?” Hiến vì trời đang nóng bức, mà nhà sư lại lấy lời họa phúc khơi gợi nên động tâm, nhân xin với sư: “Xin cùng đi với sư.” Lúc ấy nhà sư dẫn Hiến đi về phía tây, được vài dặm quả thấy rừng sâu nước đọng, quần tăng đang đùa giỡn dưới nước. Hiến kinh ngạc hỏi, sư đáp: “Đây là ao Huyền Âm, bọn ta tắm dưới đó, cũng lấy nước ấm để hong áo.” Rồi đưa Hiến đi vòng quanh ao, Hiến chỉ lạ chỗ quần tăng dưới nước trạng mạo đều giống hệt nhau. Kế đó trời tối, một nhà sư nói: “Đàn việt hãy nghe bọn ta tụng kinh tiếng Phạn đây.” Lúc ấy Hiến đứng trên bờ ao, quần tăng đều dưới nước, đồng thanh tụng niệm.
Qua khoảng một bữa cơm, một nhà sư nắm tay Hiến nói: “Đàn việt cứ cùng tắm với bọn ta trong ao Huyền Âm, cẩn thận thì không có chuyện gì đâu.” Hiến lập tức theo nhà sư lội xuống ao, chợt thấy toàn thân lạnh buốt, run lên bần bật, vì thế giật mình tỉnh dậy. Thấy mình vẫn nằm dưới gốc cây, giày áo ướt đẫm, mà trong người càng lạnh. Lúc ấy trời đã tối, vội tấp tểnh tới nơi có thôn xóm, gõ cửa xin nước, nhân ngủ nhờ ở đó. Sáng hôm sau thấy bệnh đã giảm, nên lại lên đường. Trên đường chợt nghe tiếng ếch kêu, rất giống tiếng quần tăng tụng kinh tiếng Phạn bèn đi tìm. Đi vài dặm thấy một nơi rừng sâu nước đọng, có rất nhiều ếch. Bèn tìm hỏi tiều phu, quả nhiên chỗ nước ấy tên là ao Huyền Âm, mới biết quần tăng đều là bầy ếch biến ra. Hiến nói: “Bầy ếch này có thể biến hình để mê hoặc người ta, chẳng phải rất kỳ quái sao!” Chợt đùng đùng nổi giận, giết sạch bầy ếch.
25. Trâu[1]
[1] Ngưu độc.
Đất Sở Trung có người nông dân ra chợ về, trên đường dừng lại nghỉ. Có người thuật sĩ phía sau tới, cùng nhau nói chuyện phiếm, chợt nhìn người nông dân nói: “Khí sắc của ông không tốt, trong vòng ba ngày se bị hao tài, gặp quan ngục.” Người nông dân nói: “Ta đã nộp thuế đủ, bình sinh không hay tranh cãi, làm sao có chuyện quan ngục?” Người thuật sĩ nói: “Ta cũng không biết, nhưng khí tượng như thế, không thể không cẩn thận.” Người nông dân rất không tin, chắp tay từ biệt rồi về. Hôm sau chăn trâu ngoài đồng, có con ngựa trạm phóng qua, con trâu nhìn thấy, lầm tưởng là cọp, xông vào húc chết ngựa. Người nông dân bị bắt lên quan, quan phạt qua loa, bắt bồi thường con ngựa. Đại khái trâu gặp cọp ắt đấu, nên những người buôn trâu ngủ lại trên đường đều lấy trâu để tự vệ. Thấy ngựa tới là xua trâu tránh đi, vì sợ húc lầm.