Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XI - Chương 205 - 206 - 207 - 208 - 209 - 210 - 211
205. Khách buôn vải[1]
[1] Bố thương.
Có người
khách buôn vải là Mỗ tới đất Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), tình cờ ghé thăm ngôi
chùa bỏ hoang, thấy chùa thiền đổ nát than thở không thôi. Sư đứng bên cạnh nói:
“Nếu thí chủ có lòng thiện tín, xây lại sơn môn thì mặt Phật cũng được rạng rỡ.”
Khách khảng khái nhận lời, sư mừng rỡ mời vào phương trượng khoản đãi rất ân
cần, kế dắt đi khắp phòng ốc trong ngoài, xin sửa sang hết. Khách từ chối là
không đủ sức, sư cố ép buộc, giận dữ quát tháo. Khách sợ xin đưa tiền ngay, rồi
dốc túi đưa hết tiền bạc ra. Lúc sắp ra về thì sư chặn lại nói: “Ông hết sạch
cả tiền vốn không phải là tình nguyện, nhất định không cam lòng. Chẳng bằng ta
phải tính trước,” rồi cầm đao ra. Khách lạy lục năn nỉ cũng không nghe, bèn xin
được tự thắt cổ, sư ưng thuận dắt vào phòng kín, ép thắt cổ ngay. Vừa gặp lúc
có quan Phòng hải tướng quân đi ngang qua chùa, nhìn vào chỗ tường vỡ thấy có
một người con gái áo đỏ chui vào phòng sư lấy làm ngờ vực bèn xuống ngựa vào
sai quân tìm kiếm khắp cả trước sau đều không thấy đâu. Tới chỗ phòng kín thấy
hai cánh cửa đóng chặt, sư lại không chịu mở, nói thác là bên trong có yêu
quái. Tướng quân tức giận sai phá cửa vào, thấy khách đã treo cổ lên xà nhà vội
cứu xuống, giây lát thì sống lại. Hỏi han sự tình, lại tra hỏi cô gái ở đâu thì
quả thật không có, thắc là thần phật hóa thân ra mà thôi. Bèn giết sư, trả hết
tiền bạc lại cho khách. Khách càng dốc lòng sửa sang chùa chiền, từ đó lửa
hương không ngớt. Hiếu liêm Triệu Phong Nguyên kể lại chuyện này rất tường tận.
206.
Bành Nhị Tranh
Ông Hàn
Phủ ở huyện Võ Thành (tỉnh Sơn Đông) kể có lần đi cùng đường với người trong
huyện là Bành Nhị Tranh, chợt quay đầu lại thì không thấy đâu, chỉ còn con ngựa
theo sau. Nhưng nghe có tiếng kêu gào rất gấp, lắng nghe thì từ cái túi da trên
lưng ngựa phát ra. Tới gần xem thì cái túi vẫn như cũ, tuy rất nặng nhưng vẫn
không rơi xuống. Muốn cứu ra thì miệng túi đã bị khâu kín, lấy dao cắt chỉ thấy
Bành Nhị Tranh nằm co như con chó ở trong. Cứu ra rồi, hỏi tại sao lại vào được
trong bao, Bành cũng ngơ ngác không hiểu, chắc là nhà ấy bị hồ quấy phá, những
chuyện như thế rất nhiều.
207.
Thần nhảy[1]
[1] Khiêu thần.
Tục ở đất
Tế (tỉnh Sơn Đông) trong dân gian hễ ai bị bệnh thì vợ con đi bói toán rồi mời
bà đồng tới lắc vòng sắt đánh trống con làm như dáng nhảy nhót, gọi là Thần
nhảy. Tục ấy ở thành thị lại càng thịnh hành, các thiếu phụ nhà lương dân vẫn
thường làm. Trong sảnh đường bày thịt trên giá, chứa rượu trong chậu bày cả lên
bàn, đốt đuốc sáng như ban ngày. Bà đồng mặc quần ngắn, đứng co một chân như
con cò, có hai người nắm tay đỡ hai bên, miệng lẩm bẩm không ngừng như ca hát
mà cũng như khấn khứa. Số người đã có chồng và người góa chồng xấp xỉ như nhau,
cùng nhảy nhót theo tiếng kèn. Kế đánh một hồi trống vang rền như sấm điếc cả
tai, rồi bà đồng rẽ mọi người ra, vì tiếng trống ầm ĩ nên không nghe rõ là nói
gì. Kế bà ta cúi đầu liếc ngang, đứng cả hai chân xuống đất nhưng không có
người đỡ nên ngã ngay, chợt lại vươn cổ nhảy dựng lên cách mặt đất cả thước.
Đàn bà con gái trong nhà sợ sệt nói với nhau: “Ông bà về ăn uống đấy!” Rồi thổi
một hơi tắt hết đèn đuốc. Trong ngoài tối đen như mực, mọi người nín thở đứng
trong bóng tối không dám trò chuyện với nhau một câu nhưng có nói cũng không
nghe vì có nhiều tiếng động đang rộn lên.
Khoảng
xong bữa cơm thì nghe bà đồng lớn tiếng gọi tên tục của cha mẹ vợ chồng chủ
nhà, mọi người mới cùng nhau thắp đèn lên khom lưng hỏi chuyện lành dữ. Thấy
rượu thịt trên bàn đã hết sạch, cứ nhìn mặt bà đồng xem mừng giận ra sao mà
khép nép thưa gởi, còn bà ta đáp nghe vang rền. Có ai thầm dè bỉu thì thần biết
ngay, chỉ vào mặt nói ngươi dám cười ta thì thực là đại bất kính, phải lột quần
ngươi. Người dè bỉu nhìn lại mình thì quả nhiên đã bị lột truồng, cứ ra cành
cây cao nhất ngoài cổng sẽ tìm thấy quần trên đó. Đàn bà con gái cả vùng thờ
phụng rất kính cẩn, có điều gì nghi ngờ hỏi tới thì thần quyết cho ngay. Có lúc
bà đồng lại ăn mặc nghiêm trang cưỡi cọp giả làm ngựa, cầm binh khí dài múa
trên sạp, gọi là Thần cọp nhảy (Khiêu hổ thần). Những người đóng giả cọp thì
làm ra vẻ dữ tợn, gầm thét ầm ĩ. Có khi thần xưng là Quan Công Trương Phi hay
thần Nguyên Đàn, không có tên gọi nhất định, dáng vẻ khí thế hung dữ làm người
ta phải khiếp sợ. Có người đàn ông lẻn vào nhìn trộm, bị binh khí dài đâm qua
song cửa xuyên trúng mũ. Khi thần đã nhập thì phụ nữ cả nhà từ mẹ chồng con dâu
tới các chị em gái đều kính kính cẩn cẩn đứng xếp hàng ngay ngắn, không dám
nghĩ bậy, không dám ngả ngớn.
208.
Công phu Thiết bố sam[1]
[1] Thiết bố sam pháp.
Sa Hồi Tử
học được công phu Thiết bố sam, xòe bàn tay ra có thể chém đứt đầu trâu, đâm
thủng bụng trâu. Từng ở nhà Cừu công tử và Bành tam gia, treo khúc gỗ trên
không, sai hai người đầy tớ khỏe mạnh nắm một đầu hết sức thúc vào bụng, bình
một tiếng, khúc gỗ văng ra xa. Lại lấy hết sức thúc vào hạ bộ cũng không hề hấn
gì, duy chỉ sợ đao kiếm mà thôi.
209.
Đầu mỹ nhân[1]
[1] Mỹ nhân thủ.
Có bọn
khách thương ngụ ở kinh, nhà trọ liền với hàng xóm, cách một bức vách, vách ván
bị mục thủng một lỗ to bằng cái chậu. Chợt có một cô gái thò đầu vào nhìn, búi
tóc cài trâm rất lộng lẫy, kế lại đưa một cánh tay qua, thấy trắng như ngọc.
Mọi người hoảng sợ cho là yêu quái, toan nắm lấy thì đã rút ra. Giây lát lại
thò vào, cách vách nên không thấy người, chạy mau ra xem thì đã biến mất. Một
người bèn cầm dao núp dưới vách, giây lát cái đầu thò vào, y vùng dậy chém, cái
đầu theo dao rơi xuống, máu bắn tung tóe lên vách. Mọi người phát hoảng báo cho
chủ nhà trọ, chủ nhà trọ sợ hãi đem cái đầu lên báo quan. Quan bắt bọn khách
thương tới hỏi cung thấy thưa bẩm rất hoang đường bèn giam giữ suốt nửa năm, họ
đều kêu van là không biết gì, kế không thấy ai kiện tụng bèn tha ra, sai chôn
cái đầu cô gái.
210.
Thần núi[1]
[1] Sơn thần.
Lý Hội
Đẩu ở Ích Đô (tỉnh Tứ Xuyên) ngẫu nhiên đi ngang qua núi, gặp vài người đang
ngồi dưới đất uống rượu, thấy Lý đều cung kính đứng dậy mời cùng ngồi, rót rượu
mời mọc. Nhìn vào mâm thấy đủ thứ rau cỏ, uống với nhau một lúc rất vui vẻ,
nhưng rượu rất nhạt. Chợt có một người đi tới, mặt hẹp mà dài khoảng hai ba
thước, đội mũ cao mà nhỏ. Cả bọn hoảng sợ nói: “Thần núi tới rồi,” cùng nhao
nhao bỏ chạy. Lý cũng nằm rạp xuống núp dưới hố, lát sau dậy xem thì không thấy
rượu thịt gì cả chỉ có vài món bát đĩa vỡ đầy cát bụi vứt lăn lóc, trên mảnh
ngói có mấy con rắn mối mà thôi.
211.
Tướng quân họ Khố[1]
[1] Khố tướng quân.
Khố Đại
Hữu tự Quân Thục là người huyện Dương ở Hán Trung (tỉnh Tứ Xuyên) đậu Cử nhân
võ, theo làm tướng trong quân Tổ Thuật Vũ[2]. Tổ rất quý trọng, cất nhắc mấy lần, dần thăng tới chức
Tổng nhưng của nhà ngụy Chu. Sau thấy thế đã nguy, ngầm đem quân đánh Tổ, chém Tổ
bị thương ở tay rồi bắt sống giải về nộp cho Tổng đốc Thái. Tới kinh đô, Khố
nằm mơ thấy bị giải tới âm ty, Diêm Vương giận là bất nghĩa, sai quỷ tất lấy
dầu sôi đổ vào chân. Tỉnh dậy thì chân đau không sao chịu nổi, kế lở ra máu mủ
bê bết, các ngón rụng hết, lại thêm bị mê sảng, cứ gào lớn rằng: “Ta quả là kẻ
bất nghĩa, ta quả là kẻ bất nghĩa!” Rồi chết.
[2] Tố Thuật Vũ: tướng của Bình Tây vương
Ngô Tam Quế thời Thanh, theo giúp Ngô Tam Quế làm phản chống lại nhà Thanh,
chiếm cứ vùng đất phía nam Trung Quốc, xưng quốc hiệu là Chu, sau bị nhà Thanh
đánh bại.
Dị Sử thị nói: Thờ ngụy triều
thì vốn không thể nói là trung, nhưng được coi như bậc quốc sĩ hay kẻ tầm
thường thì chịu ơn cũng phải báo đáp, chỉ là người hào kiệt thì buộc mình phải
báo đáp sao cho xứng đáng mà thôi[3].
Chuyện này quả cũng có thể để răn những kẻ bầy tôi ăn ở hai lòng trong thiên hạ
vậy.
[3] Dự Nhượng người nước Tấn thời Chiến
quốc theo thờ họ Phạm Trung Hàng, họ Phạm không biết tài bèn bỏ theo thờ Trí
Bá, được Trí Bá rất kính trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương tử giết, Dự Nhượng
nuốt than sơn mặt đổi giọng nói thay vẻ mặt để hành thích Tương tử nhưng bại lộ
bị bắt. Tương tử hỏi: “Trước ông đã thờ họ Phạm Trung Hàng rồi, sao lại liều
chết báo thù cho Trí Bá?” Nhượng đáp: “Họ Phạm coi ta là kẻ tầm thường thì ta
báo đáp như kẻ tầm thường còn Trí Bá coi ta như bậc quốc sĩ nên ta báo đáp theo
kiểu quốc sĩ.” Cả câu ý nói kẻ hào kiệt phải đền ơn theo kiểu hào kiệt chứ
không thể tính toán so kè là chịu ơn nhỏ hay lớn được.