Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XII - Chương 214 - 215
214. Thôi Mãnh
Thôi Mãnh
tự Vật Mãnh là con nhà thế gia ở huyện Kiến Xương (tỉnh Liêu Ninh), tính cương
nghị. Lúc nhỏ đi học ở trường, bọn trẻ có đụng chạm gì tới là nắm tay đánh
liền, thầy nhiều lần răn dạy vẫn không bỏ, nên tên và tự đều do thầy đặt cho[1]. Đến mười sáu mười bảy tuổi
thì võ nghệ tuyệt luân, lại có thể chống sào dài nhảy lên mái nhà, thích giúp
người rửa sạch nỗi bất bình. Vì vậy người làng đều khâm phục, những người tới
nhờ vả kể lể thường chật cả nhà. Thôi đè nén kẻ mạnh, giúp đỡ người yếu không
sợ oán thù, ai tỏ ý chống lại thì lập tức lấy gạch đá gậy gộc đánh luôn cho đến
lúc toàn thân bầm dập, lúc đã lên cơn giận dữ thì không ai dám khuyên can. Duy
thờ mẹ rất có hiếu, mẹ tới là hết giận ngay, mẹ trách mắng bao nhiêu cũng vâng
vâng dạ dạ nghe lời, có điều cứ ra khỏi cửa là quên mất.
[1] Tên và tự đều do thầy đặt cho: “Mãnh”
có nghĩa là mạnh bạo, dữ tợn, “Vật Mãnh” có nghĩa là đừng hung dữ, đây người
thầy vừa có ý khuyến khích Thôi Mãnh nên mạnh dạn làm điều nghĩa nhưng vừa có ý
khuyên dạy đừng hung dữ.
Láng
giềng có người đàn bà ác hàng ngày ngược đãi mẹ chồng, mẹ chồng đói gần chết,
con trai lén cho ăn, mụ ta biết được chửi mắng đủ điều, bốn bên hàng xóm đều nghe.
Thôi giận vượt tường qua cắt hết tai mũi môi lưỡi, mụ chết ngay lập tức. Mẹ
Thôi nghe tin cả sợ, gọi người láng giềng qua, hết lời năn nỉ an ủi, cưới cho
một nàng hầu trẻ mới yên chuyện. Mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn, Thôi sợ quỳ xuống
xin chịu đòn, lại thưa đã hối hận rồi, nhưng mẹ vẫn khóc không thèm nhìn tới.
Vợ Thôi là Chu thị cũng quỳ xuống với chồng, mẹ bèn cầm gậy đánh rồi lấy kim
thích vào cánh tay Thôi thành hình chữ thập, dùng son bôi vào cho khỏi mất dấu.
Thôi đều chịu cả, mẹ mới chịu ăn cơm.
Mẹ Thôi
thích nuôi các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ ăn no. Gặp lúc có vị đạo sĩ đang
đứng ở cổng thì Thôi đi ngang, đạo sĩ nhìn Thôi rồi nói: “Lang quân tính khí
ngang tàng hung dữ, e khó giữ trọn tuổi trời, nhà tích thiện lẽ ra không nên để
có chuyện như vậy.” Thôi vừa nghe mẹ răn dạy, nghe thế tỏ vẻ cung kính nói: “Ta
cũng tự biết thế nhưng cứ gặp chuyện bất bình là không sao kìm mình được, không
biết gắng sức sửa đổi có tránh được không?” Đạo sĩ cười đáp: “Khoan hãy hỏi
tránh được hay không tránh được, xin cứ hỏi sửa được hay không sửa được. Cứ
phải ra sức tự kìm chế, nếu thấy có thể làm được trong muôn một thì ta sẽ nói
cho ông một phép giải tử.” Thôi bình sinh không tin chuyện bùa chú nên chỉ cười
không đáp, đạo sĩ bèn nói: “Ta vốn biết là ông không tin, nhưng lời ta nói đây
không phải như lời bọn đồng cốt, làm theo cũng là có đức tốt, cho dù không có
kết quả cũng không đến nỗi có hại.” Thôi xin nghe, đạo sĩ bèn nói: “Vừa có một
kẻ hậu sinh đi qua trước cổng, nên kết giao thật hậu, đến lúc phạm tội chết thì
người ấy có thể cứu được,” rồi gọi Thôi bước ra chỉ cho biết người ấy, thì ra
đó là đứa nhỏ con nhà họ Triệu tên Tăng Ca.
Triệu là
người huyện Nam Xương (tỉnh Giang Tây), gặp năm mất mùa phải tới ngụ cư ở Kiến
Xương. Thôi từ đó chơi thân với Triệu, mời tới ở nhà mình, đãi ngộ rất hậu.
Tăng Ca năm ấy mười hai tuổi, lên nhà lạy mẹ Thôi làm mẹ, nhận Thôi làm anh.
Đến vụ mùa đầu năm sau, Triệu đưa gia quyến về quê, từ đó không có tin tức gì.
Mẹ Thôi từ khi người đàn bà láng giềng chết càng răn dạy con chặt chẽ, có ai
tới kêu nài cầu cứu đều gạt đi. Một hôm em mẹ Thôi chết, Thôi theo mẹ qua
viếng, dọc đường gặp mấy người trói một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa xô đẩy
bắt đi mau, lại đánh đập túi bụi, người ta đứng xem chật đường, kiệu không tiến
được. Thôi ra hỏi thì những người quen biết tranh nhau kể, nguyên là có con
trai một vị quan lớn tên Mỗ Giáp, ngang tàng nhất vùng, thấy vợ Lý Thân xinh
đẹp muốn chiếm đoạt nhưng không có cớ bèn sai người nhà dụ Thân đánh bạc, đưa
tiền cho vay nhưng tính lãi rất nặng, bắt ghi cả vợ vào giấy nợ, thua hết lại
cho vay tiếp, một đêm mang nợ tới mấy ngàn. Được nửa năm tính cả vốn lẫn lãi đã
hơn ba mươi ngàn, Thân không sao trả được, chúng cậy đông người kéo tới bắt vợ
Thân đi. Thân tới cổng kêu khóc, Mỗ giận bắt trói treo lên cây đánh đập buộc
phải làm giấy cam đoan không kiện tụng.
Thôi nghe
chuyện giận điên người, thúc ngựa xông lên định đánh nhau. Bà mẹ vén rèm kiệu
gọi lại nói: “Chà, lại thế rồi phải không!” Thôi đành thôi. Viếng tang xong về
nhà cứ lầm lì không nói chuyện không ăn cơm, chỉ ngồi sững trợn mắt như có điều
tức giận, vợ hỏi han gì cũng không đáp, ban đêm thì mặc cả áo ngoài nằm trên
giường, trằn trọc đến sáng. Đêm sau cũng thế, mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm,
cứ thế ba bốn lần, vợ không dám hỏi, chỉ nằm im nghe ngóng. Kế lại đi ra, lâu
lắm mới trở vào, đóng cửa lên giường ngủ say. Đêm ấy có người giết Mỗ Giáp trên
giường, phanh bụng rút ruột ra ngoài, xác vợ Thân thì trần truồng nằm dưới
giường. Quan nghi là Thân, bắt lên tra hỏi, đánh đập cùm kẹp tàn khốc, lòi cả
xương mắt cá chân ra nhưng vẫn không chịu nhận, hơn một năm không chịu nổi cực
hình phải nhận bừa, bị khép tội chết. Vừa lúc ấy mẹ Thôi chết, chôn cất xong,
Thôi nói với vợ rằng: “Người giết tên Giáp chính là ta, chỉ vì còn mẹ già nên
không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, sao lại mình làm nên tội lại bắt kẻ
khác chịu tai họa. Ta lên quan nhận tội chết đây.” Vợ sợ hãi níu áo kéo lại,
Thôi dứt áo đi, tới công đường tự thú.
Quan ngạc
nhiên, cùm lại giam vào ngục rồi tha Thân ra. Thân không chịu, cứ nhất định
nhận tội, quan không quyết được bèn nhốt cả hai. Họ hàng đều chê trách Thân,
Thân nói: “Việc công tử đã làm là việc ta muốn làm mà không thể làm được. Công
tử đã làm thay cho ta mà ta lại nỡ ngồi nhìn công tử chết sao? Nay cứ coi như
công tử chưa ra thú là được.” Rồi không chịu đổi lời khai, cố tranh tội với
Thôi. Lâu sau nha môn đều biết duyên do, đuổi Thân ra khỏi ngục để Thôi chịu
tội, lúc ấy đã sắp đến ngày hành hình. Vừa gặp khi có quan Bộ lang họ Triệu coi
việc giảm án tới xét ngục, điểm lại danh sách tù phạm tới tên Thôi bèn đuổi hết
mọi người ra rồi cho gọi vào. Thôi vào ngẩng nhìn lên thềm thì là Tăng Ca, vừa
tủi vừa mừng kể thật hết sự tình. Triệu ngần ngừ hồi lâu rồi sai giam lại vào
ngục như cũ, dặn ngục tốt phải đối xử tử tế, kế lấy cớ đã tự thú giảm tội cho,
sung làm lính ở Vân Nam, Thân cũng đi theo để hầu hạ.
Chưa đầy
một năm, được theo lệ ân xá trở về, đều là nhờ sức của Triệu. Khi Thôi đã về
Thân vẫn theo không rời, thay Thôi coi sóc mọi việc làm ăn, trả tiền công thì
không lấy, chỉ chú tâm xin học những thuật phi thân đánh đá, Thôi cũng đối xử
rất hậu, cưới vợ cấp ruộng cho. Thôi từ đó cố gắng sửa nết cũ, mỗi khi sờ đến
vết kim châm trên cánh tay thì giàn giụa nước mắt, vì thế trong làng có ai đánh
nhau thì Thân thác lời Thôi can ngăn dàn xếp chứ không cho Thôi hay. Có viên
Giám sinh họ Vương là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân khắp nơi thường lui tới,
nhiều nhà khá giả trong huyện bị cướp bóc, ai trái ý thì y sai bọn cướp giết
ngay ngoài đường, con y cũng dâm đãng tàn bạo. Vương có một bà thím góa chồng,
cha con cùng gian dâm với bà ta, vợ là Cừu thị nhiều lần can ngăn, Vương thắt
cổ nàng chết. Anh em họ Cừu thưa kiện lên quan, Vương đút lót để quan buộc họ
vào tội vu cáo. Họ hàm oan uất ức không có cách nào phát tiết, tới cầu cứu Thôi
nhưng Thân chối từ không cho gặp. Vài hôm sau có khách, gặp lúc không có người
hầu, Thôi bảo Thân pha trà, Thân im lặng đi ra nói với mọi người rằng: “Ta với
Thôi Mãnh chỉ là bạn bè mà theo nhau đi đày muôn dặm, không thể nói là không
chí tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào còn coi như đầy tớ, thật không
chịu nổi,” rồi giận dữ bỏ đi.
Có người
kể lại với Thôi, Thôi kinh ngạc vì Thân đổi tính nết nhưng cũng chưa lấy làm
lạ. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công, Thôi quá lạ lùng,
đích thân lên đối chất. Thân căm tức tranh cãi, quan cho là vô lý bèn quát đuổi
về. Vài hôm sau Thân chợt đang đêm vào nhà Vương giết cả hai cha con, bà thím
và đứa con dâu rồi dán giấy lên vách tự xưng tên họ, cho đuổi bắt thì đã trốn
biệt tích. Nhà họ Vương nghi là do Thôi sai khiến, nhưng quan không tin. Thôi
mới sực hiểu ra chuyện kiện tụng trước đây là do Thân sợ giết người sẽ làm liên
lụy tới mình. Văn thư truy nã gởi khắp các châu huyện chung quanh, tìm bắt Thân
rất gấp, nhưng gặp lúc giặc Sấm[2] chiếm
kinh đô, việc ấy chìm luôn. Không bao lâu nhà Minh mất ngôi, Thân đem gia quyến
về, lại thân thiết với Thôi như trước.
[2] Giặc Sấm: xem chú thích truyện Tố Thu.
Lúc ấy
giặc cướp tụ tập khắp nơi, Vương có đứa cháu họ là Đắc Nhân tập họp bọn vô lại
do chú chiêu mộ chiếm cứ núi non làm giặc, kéo đi cướp phá thôn xóm. Một đêm
dốc cả sào huyệt kéo tới, nói là để phục thù. Gặp lúc Thôi vắng nhà, giặc đã
phá cửa Thân mới biết, vượt qua tường núp trong bóng tối. Giặc tìm không thấy
Thôi bèn bắt vợ Thôi, vơ vét hết của cải kéo đi. Thân trở vào, chỉ còn có một
người đầy tớ, vô cùng căm giận, bèn cắt lấy vài mươi đoạn thừng, đưa người đầy
tớ những đoạn ngắn còn mình giữ những đoạn dài. Dặn người đầy tớ lên sào huyệt
giặc, tới lưng núi thì châm lửa vào dây thừng treo rải rác trên các bụi gai rồi
bỏ đó về ngay. Người đầy tớ vâng lời đi, Thân thấy bọn giặc đều thắt dây lưng
đỏ và buộc mảnh vải đỏ trên mũ, bèn bắt chước giả trang theo.
Có con
ngựa cái già mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa, Thân buộc ngựa con lại, cưỡi ngựa
mẹ ngậm tăm ra đi, tới thẳng sào huyệt giặc. Giặc đóng ở một thôn lớn, Thân
buộc ngựa ngoài thôn vượt tường vào, thấy bọn giặc còn nhốn nháo chưa kịp cởi
gươm buông giáo, trà trộn vào hỏi han biết vợ Thôi ở chỗ tên Vương. Giây lát
nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng một người báo núi
phía đông có lửa, giặc cùng ngẩng nhìn, lúc đầu chỉ có một hai đốm, kế nhiều
như sao sa. Thân lấy hơi kêu to: “Phía đông có động!” Vương cả kinh, nai nịt
dẫn quân kéo ra, Thân nhân dịp lủi ra phía sau rồi quay trở vào. Thấy có hai
tên giặc canh giữ trong trướng, bèn lừa nói: “Vương tướng quân quên thanh bội
đao,” hai tên tranh nhau tìm, Thân từ phía sau chém một tên ngã xuống, tên kia
vừa ngoảnh nhìn, Thân cũng chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường ra, mở ngựa
đưa dây cương dặn: “Nương tử không biết đường, cứ để ngựa đi là được.” Ngựa nhớ
con phóng mau trở về, Thân theo sau, ra khỏi một cửa núi hẹp châm lửa vào dây
thừng treo khắp nơi rồi chạy về.
Hôm sau
Thôi về, cho là điều đại sỉ nhục, tức giận lồng lên, muốn một mình một ngựa tới
phá giặc. Thân khuyên đừng đi, họp người làng bàn tính. Mọi người đều khiếp sợ
không dám lên tiếng, khuyên lơn giảng giải ba bốn lần mới được hơn hai mươi
người dám đi, nhưng lại không có khí giới. Vừa gặp lúc bắt được hai tên gian tế
trong nhà họ hàng của Vương, Thôi định giết nhưng Thân không cho, sai hai mươi
người cầm gậy gộc dàn ra trước mặt, cắt tai hai tên rồi thả về. Mọi người tức
giận nói: “Có một nhúm quân thế này, đang sợ giặc nó biết, mà còn khoe cho hai
thằng kia thấy, nếu chúng kéo rốc cả tới thì đóng cổng làng cũng không sao giữ
được!” Thân đáp: “Ta đang muốn chúng kéo tới mà.” Bèn bắt giết bọn chứa giặc
trong nhà, sai người ra bốn phía tìm cung nỏ súng đạn, lại lên huyện mượn hai
cỗ pháo lớn.
Chập tối
dẫn những người khỏe mạnh tới cửa núi, đặt pháo nhắm thẳng vào, sai hai người
cầm mồi lửa núp ở đấy, dặn thấy giặc là bắn ngay. Lại qua phía đông cửa núi,
chặt cây đặt trên dốc, kế cùng Thôi chia nhau mỗi người suất lĩnh một toán hơn
mười người mai phục hai bên. Gần hết canh một thì nghe xa xa có tiếng ngựa hí,
lén lên nhìn quả thấy giặc ồ ạt kéo tới, quân mã nối nhau kéo dài không dứt.
Chờ chúng lọt hết vào hẻm núi rồi bèn sai lăn cây xuống để chặn đường về. Giây
lát pháo nổ ran, tiếng la thét kêu gào vang động khe núi. Giặc vội rút lui,
giẫm đạp lên nhau mà chạy, tới cửa núi phía đông không thoát ra được, chen chúc
không còn khoảnh đất nào hở. Súng đạn cung nỏ hai bên dốc núi giáp công, bắn
xuống như mưa, bọn giặc đứa đứt đầu đứa gãy chân, nằm chất lên nhau ngổn ngang,
chỉ còn hơn hai mươi tên quỳ xuống xin tha mạng, bèn sai người trói giải về.
Kế thừa
thắng tiến thẳng tới sào huyệt giặc, bọn giữ trại nghe hơi chạy tan tác, bèn
tìm kiếm chở hết lương thảo tài vật đem về. Thôi mừng lắm, hỏi về kế đốt lửa,
Thân đáp: “Đốt lửa ở phía đông vì sợ chúng đuổi theo về phía tây, dùng thừng
ngắn cho mau cháy hết vì sợ chúng dò biết là không có ai, lại đốt ở cửa núi vì
chỗ đó chật hẹp, một người cũng chặn giữ được, chúng đuổi tới thấy lửa ắt sợ,
đều là hạ sách nhất thời mạo hiểm mà dùng thôi,” bắt bọn giặc lên hỏi thì quả
nhiên khi đuổi tới cửa núi thấy có ánh lửa nên sợ hãi rút lui. Bèn xẻo tai cắt
mũi hơn hai mươi tên giặc bị bắt rồi thả về, từ đó uy danh của Thôi và Thân
lừng lẫy, những người lánh nạn xa gần theo về như chợ, tổ chức được hơn ba trăm
dân dũng, giặc cướp các nơi không đám nào dám tới cướp bóc, cả vùng nhờ thế
được yên ổn.
Dị Sử thị nói: “Nghé mạnh ắt có thể phá xe”[3] là nói Thôi chăng! Quả
là chí khí khảng khái không ai sánh được vậy. Nhưng muốn trong thiên hạ không
còn chuyện bất bình, chẳng lẽ còn định hơn cả kẻ thông đạt ư? Lý Thân thì chỉ
là một người dân nhỏ mọn mà lại tới được chỗ tốt đẹp trọn vẹn, vượt tường đột
nhập, giết cầm thú tại phòng riêng, chặn đường giáp công, trừ giặc cướp trong
núi thẳm, nếu trao cho lá đại kỳ năm trượng, vì quốc gia ra sức, chẳng lẽ lại
không làm tới tước vương sao?
[3] Thạch Hổ là con vua nhà Hậu Triệu
Thạch Lạc thời Tấn, lúc nhỏ khoẻ mạnh bắn giỏi nhưng tính hung dữ, mấy lần bắn
chết người. Thạch Lạc tức giận toan giết, vào thưa với mẹ, mẹ nói: “Trâu giỏi
lúc còn là nghé thì hay phá xe, con cố nhịn một chút.” Đây ý nói người làm nên
nghiệp lớn thì lúc nhỏ đã có tính nết, tư chất khác người thường.
215. Đảo An Kỳ[1]
[1] An Kỳ đảo.
Quan Tể
tướng Lưu Hồng Huấn người huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) cùng viên tướng Mỗ
đi sứ Triều Tiên. Nghe nói đảo An Kỳ là nơi thần tiên ở, muốn sai thuyền chở
tới đó chơi, nhưng các quan nước ấy đều nói là không được, bảo đợi Tiểu Trương.
Đại khái đảo An Kỳ không đi lại với thế gian, chỉ có đệ tử là Tiểu Trương mỗi
năm tới đó một lần, ai muốn tới đảo trước hết phải nói rõ với ông ta, nếu ông
ta chịu thì một chiếc bè cũng tới nơi, nếu ông ta không chịu ắt sẽ có gió bão
đánh chìm thuyền. Qua hai ba hôm, quốc vương gọi Lưu vào bệ kiến, thấy một người
đeo kiếm đội nón tre ngồi trên điện, tuổi khoảng ba mươi, tướng mạo thanh kỳ,
hỏi ra thì chính là Tiểu Trương. Lưu nhân đó tỏ ý muốn tới đảo, Tiểu Trương ưng
thuận, nhưng nói viên Phó sứ không đi được. Lại ra ngoài nhìn ngắm bọn tùy từng
suốt một lượt, chỉ có hai người có thể đi cùng Lưu, bèn sai lấy thuyền đưa Lưu
đi.
Đường
biển không biết xa hay gần, chỉ thấy gió thổi ào ạt, thuyền như lướt mù rẽ mây
mà đi. Lúc ấy đang giữa mùa đông, nhưng tới đảo thì thấy khí trời ấm áp, hoa nở
đầy núi. Tiểu Trương đưa bọn Lưu vào động phủ, thấy có ba ông già ngồi xếp
bằng, hai người hai bên thấy khách vào vẫn thản nhiên như không hay biết, chỉ
có người ngồi giữa đứng dậy đón chào thi lễ. Kế mời ngồi gọi lấy trà thì có đứa
tiểu đồng cầm cái mâm đi ra, trên khe đá nhỏ ngoài động có cái dùi sắt cắm lút
vào đá, tiểu đồng nhổ lên thì nước vọt ra, lấy chén hứng đầy rồi lại nút kín
lại. Kế bưng vào, thấy sắc màu xanh nhạt, uống thử thì lạnh tê răng. Lưu sợ
lạnh không uống, ông già đưa mắt ra hiệu cho tiểu đồng, tiểu đồng cầm cái chén
ra, uống hết nước trong chén rồi tới chỗ cũ nhổ cái dùi lên hứng đầy nước quay
vào, thấy nước nóng bốc lên nghi ngút như vừa đun sôi xong, Lưu vô cùng lạ
lùng. Hỏi về việc hay dở sắp tới, ông già cười đáp: “Người ngoài cõi đời ngay
cả năm tháng cũng còn không biết, làm sao biết được việc người?” Hỏi tới thuật
trường sinh, ông già đáp: “Đó không phải là việc mà người trong trường phú quý
làm được đâu.
Lưu cáo
từ, Tiểu Trương lại đưa về, tới nơi kể lại mọi chuyện, quốc vương Triều Tiên
than rằng: “Tiếc là ông chưa uống chén nước lạnh, đó là Tiên thiên ngọc dịch,
uống một chén có thể sống thêm trăm tuổi.” Khi Lưu về nước, vương tặng một vật
gói vải kín mít, dặn còn gần biển thì đừng mở ra xem. Lưu vừa lên tới bờ vội mở
ra xem, tháo hết mấy trăm lớp vải bọc mới thấy một tấm gương, cầm lên xem thì long
cung thủy tộc đều rõ ràng trước mắt. Đang còn chăm chú nhìn, chợt có ngọn sóng
cao như lầu gác sầm sập đổ tới, cả sợ bỏ chạy, ngọn sóng ầm ầm đuổi theo mau
như mưa tuôn gió cuốn, khiếp đảm ném tấm gương lại, ngọn sóng bèn rút ngay.