Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XII - Chương 216 - 217

216.
Tiết Ủy Nương

Phong
Ngọc Quế là nho sĩ ở Liêu Thành, nghèo khổ không có cách mưu sinh. Trong niên
hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) gặp năm mất mùa lớn, lẻ loi đi xa kiếm
ăn. Hơn một năm định về, tới huyện Nghi (tỉnh Sơn Đông) thì mắc bệnh, cố sức đi
mau được vài dặm, tới một đám mộ hoang phía nam thành thì quá mệt nên nằm xuống
cạnh một ngôi mộ. Giây lát mê đi như nằm mơ, thấy tới một nhà nọ, có ông già
trong cổng bước ra mời vào, nhà có hai gian đều xoàng xĩnh, trong phòng có một
cô gái tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo xinh đẹp ông già sai sắc thuốc,
rót vào chén bằng đất đưa lên cho khách rồi hỏi quê quán tuổi tác, sinh đáp
xong bèn nói: “Ta là Lý Hồng Đô người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lưu ngụ ở
đây đã ba mươi hai năm rồi. Xin ông nhớ kỹ nhà này, con cháu của ta nếu có tới
hỏi xin làm phiền chỉ cho, lão phu không dám quên ơn. Nghĩa nữ đây tên Ủy Nương
cũng không xấu xí lắm, xin gả cho bậc quân tử, hôm nào con thứ ba của ta tới sẽ
đính ước.”

Sinh mừng
rỡ lạy nói: “Thân trâu ngựa đã hai mươi hai tuổi vẫn chưa có vợ, được đội ơn
cho làm thân thích thì may lắm, có điều không biết con cháu của cha chỗ nào để
tìm tới?” Ông già đáp: “Ông chỉ cần ở lại trong thôn này, chờ hơn một tháng sẽ
có người tới, chỉ cần chúng cầu xin gì thì đừng từ chối thôi.” Sinh sợ là bất
tín, đòi ông già phải cam kết, nói: “Nói thật với cha, nhà ta chỉ có bốn bức
vách, e ngày sau không làm được điều cha mong muốn, nửa chừng bỏ dở không làm
được thì cũng không lấy được vợ, nên không dám không xin một lời hứa chắc chắn,
chứ không ngại gì chuyện khác.” Ông già cười nói: “Ông muốn lão phu thề phải
không? Ta vốn biết ông nghèo, nhờ việc này không phải để trói buộc ông đâu. Ủy
Nương mồ côi không nơi nương tựa, ở với ta đã lâu, không nỡ để cho nó phải lưu
lạc nên đem dâng cho bậc quân tử thôi, ông đừng nghi ngờ.” Kế cầm tay đưa sinh
ra cửa, chắp tay chào rồi đóng cửa quay vào.

Sinh chợt
tỉnh dậy, thấy mình đang nằm cạnh ngôi mộ mà trời đã gần trưa bèn gượng dậy lần
vào thôn. Người trong thôn nhìn thấy đều hoảng sợ, nói đã chết cạnh đường hơn
một ngày rồi, sinh mới sực hiểu ra rằng ông già tức là người chôn trong mộ, giữ
kín không nói ra, chỉ xin họ cho ở trọ. Người trong thôn sợ sinh lại chết nên
không ai dám cho ở, trong thôn có người Tú tài cùng họ với sinh nghe thấy tới
hỏi gia thế, té ra là chú họ của sinh, mừng rỡ dắt về nhà lo cơm nước thuốc
thang cho, vài hôm thì khỏi bệnh. Sinh thuật lại chuyện mình gặp, người chú
cũng ngạc nhiên lạ lùng, bèn chờ xem ra sao.

Không bao
lâu quả có vị quan nhân tới thôn hỏi thăm mộ cha chôn ở đâu, tự nói là Tiến sĩ
Lý Thúc Hướng ở huyện Bình Dương. Trước đó Lý Hồng Đô đi buôn xa với người đồng
hương là Giáp, chết ở đất Nghi, Giáp bèn chôn chỗ đám mộ hoang, vừa về tới nhà
thì cũng chết. Lúc ấy ba con của Hồng Đô đều còn nhỏ, con lớn là Bá Nhân, sau
thi đậu Tiến sĩ, làm Tri huyện Hoài Nam, mấy lần sai người tìm hỏi mộ cha nhưng
không ai biết. Con kế là Trọng Đạo, sau thi đỗ Cử nhân. Thúc Hướng là con út
cũng thi đỗ Tiến sĩ, lúc ấy đích thân đi tìm mộ cha, tới đất Nghi hỏi thăm khắp
cả. Hôm ấy hỏi người trong thôn mà không ai biết, sinh bèn đưa tới chỗ ngôi mộ
chỉ cho.

Thúc
Hướng thấy sinh trẻ tuổi chưa dám tin hẳn, sinh bèn thuật lại chuyện mình đã
gặp, Thúc Hướng lấy làm lạ, nhìn kỹ thì có hai ngôi mộ liền nhau, có người nói
ba năm trước có vị quan chôn người thiếp ở đó. Thúc Hướng sợ đào nhầm mộ, sinh
bèn chỉ chỗ mình đã nằm. Thúc Hướng liền sai đem quan tài tới để bên cạnh rồi
mới cho đào, đào lên thì thấy xác một cô gái, quần áo đã mủn nát nhưng mặt mũi
vẫn tươi tắn như còn sống. Thúc Hương thấy lầm, sợ quá không biết làm sao nhưng
cô gái đã ngồi dậy nhìn quanh nói: “Tam ca tới rồi.” Thúc Hướng ngạc nhiên tới
gần hỏi han thì là Ủy Nương, liền cho nàng thay áo đổi giày đưa về nhà trọ, rồi
vội đào ngôi mộ bên cạnh, mong cha cũng sống lại, nhưng đào lên thấy da thịt
còn nguyên mà vỗ gọi vẫn cứng đờ, thương xót vô cùng, bèn mặc áo mới cho vào
quan tài, cúng tế bảy hôm, cô gái cũng chít khăn để tang như con gái ruột.

Chợt nói
với Thúc Hướng rằng: “Trước cha có hai nén vàng, từng chia cho em một nén làm
của hồi môn nhưng vì em yếu ớt không có chỗ cất giấu nên cha lấy vải màu buộc
chặt trong lưng chưa từng rời ra, anh có nhặt được không?” Thúc Hướng không
biết, bảo sinh quay lại chỗ ngôi mộ, quả nhiên tìm thấy đúng như lời cô gái
nói. Thúc Hướng vẫn theo lời cha, chia tặng Ủy Nương một nén rồi hỏi han gia
thế của nàng. Trước đây cha cô gái là Tiết Dần Hầu không có con trai, chỉ sinh
được Ủy Nương nên rất thương yêu. Một hôm cô gái từ nhà cậu ở Kim Lăng về, cùng
bà vú tới bến dò hỏi thuê thuyền, thì nhà thuyền là một người làm mai ở Kim
Lăng.

Lúc ấy có
vị quan hết hạn về kinh muốn tìm một người thiếp trẻ nhưng y giới thiệu mấy đám
đều không vừa ý, nên định đi thuyền tới Quảng Lăng (huyện Giang Đô). Chợt gặp
cô gái y nghĩ ra kế lừa gạt, vội gọi thuyền kia tới bên cạnh. Bà vú vốn quen y
bèn đi cùng đường, giữa đường y bày tiệc bỏ thuốc độc vào thức ăn, cô gái và bà
vú đều mê man, y bèn xô bà vú xuống sông, chở cô gái trở về bán cho vị quan nọ.
Tới nơi, vợ cả hay được vô cùng tức giận, cô gái cũng ngơ ngác không biết làm
lễ ra mắt, vợ cả đánh đập nhốt lại. Lên bờ đi được ba ngày cô gái mới tỉnh hẳn,
đám tỳ nữ kể lại đầu đuôi, nàng òa lên khóc. Một đêm ngủ lại đất Nghi, nàng tự
thắt cổ chết, họ bèn chôn ở đám mộ hoang. Cô gái tới bị đám ma ở đó trêu ghẹo
ức hiếp, ông Lý ra quát đuổi chúng đi, nàng bèn nhận ông làm cha. Ông nói: “Số
con chưa phải chết, ta sẽ chọn cho một người chồng vừa ý.”

Hôm sinh
đã trở ra ông quay vào nói với nàng rằng: “Người này nhân phẩm có thể nương
dựa, chờ tam ca của con tới làm chủ hôn cho.” Một hôm lại nói: “Con có thể về,
tam ca con sắp tới rồi,” đó là hôm quật mộ vậy. Cô gái thuật lại hết cho Thúc
Hướng nghe, Thúc Hướng than thở hồi lâu rồi lập tức nhận nàng làm em gái, đổi
theo họ Lý, mua sắm quần áo cho nàng rồi gả cho sinh, nói: “Trên đường không có
nhiều tiền bạc, không thể mua sắm đầy đủ cho em, muốn tất cả cùng về cho mẹ
vui, em nghĩ sao?” Cô gái cũng vui vẻ, rồi đó vợ chồng theo Thúc Hướng đưa linh
cữu về. Tới nhà, bà mẹ hỏi biết đầu đuôi, thương yêu Ủy Nương còn hơn con ruột,
cho ở một căn nhà riêng.

Lúc chôn
cất, cô gái khóc thương còn hơn cả con cháu trong nhà, mẹ càng thương yêu,
không cho về Sơn Đông, bảo các con trai mua nhà cho nàng. Vừa gặp lúc có họ
Phùng bán nhà, ra giá sáu trăm đồng vàng, lúc gấp gáp chưa lo được đủ tiền bèn
làm giấy tờ hẹn ngày trả đủ. Đến ngày hẹn, Phùng tới sớm, vừa gặp lúc cô gái
cũng từ nhà riêng qua hầu mẹ, bất ngờ gặp nhau, thấy rất giống người nhà thuyền
năm trước, Phùng cũng như e sợ cô gái, vội vã đi ra. Hai anh vì thấy mẹ khó ở
cũng tới thăm hỏi, cô gái hỏi người thong thả đi trước phòng khách là ai, Trọng
Đạo nói: “Suýt nữa thì quên, đó ắt là kẻ bán nhà hôm trước.” Rồi lập tức đứng
dậy bước ra, cô gái giữ lại nói rõ điều mình nghi ngờ, bảo anh căn vặn thử xem,
Trọng Đạo gật đầu bước ra thì Phùng đã đi mất, chỉ còn ông thầy dạy học ở ngõ
nam là Tiết tiên sinh ở đó. Nhân hỏi sao lại tới đây, Tiết đáp: “Tối qua họ
Phùng nhờ ta tới sớm làm chứng ký tên vào giấy bán nhà, vừa rồi gặp nhau trên
đường, y nói là quên một việc ở nhà phải về rồi sẽ quay lại ngay, bảo ta cứ
ngồi ở đây đợi.” Giây lát sinh và Thúc Hướng cùng tới, cùng nhau trò chuyện. Ủy
Nương vì việc gặp Phùng cũng núp sau bình phong nhìn trộm khách, nhìn kỹ thì té
ra là cha mình bèn chạy ngay ra ôm cha khóc lớn.

Tiết kinh
ngạc rơi lệ nói: “Con ta sao lại tới đây mọi người mới biết Tiết là Dần Hầu.”
Trọng Đạo tuy có gặp mấy lần trên đường nhưng cũng chưa từng hỏi tên ông ta,
đến lúc ấy rất mừng bèn kể lại chuyện trước, mở tiệc ăn mừng rồi giữ ở lại đó.
Tiết kể lại chuyện mình, đại khái sau khi con gái thất tung thì vợ buồn rầu mà
chết, ông ta góa vợ không còn ai để nhờ vả nên du học tới đây. Sinh hẹn mua nhà
xong sẽ đón ông về ở cùng. Hôm sau đi dò xem thì Phùng đã dắt gia đình trốn
mất, mới biết kẻ giết bà vú bán Ủy Nương là y. Lúc đầu Phùng tới Bình Dương
buôn bán trở nên giàu có, năm ấy cờ bạc nên dần dần sa sút mới bán nhà, số tiền
bán Ủy Nương kể như mất trắng. Ủy Nương được nhà ở cũng không căm hờn gì lắm,
chỉ chọn ngày tới ở chứ không sai người tìm bắt y. Mẹ Lý liên tiếp sai mang đồ
đạc qua cho, tất cả những thứ vật dụng thường ngày đều chu cấp đủ, sinh bèn ở
lại luôn Bình Dương, chỉ về quê dự thi, lấy làm khổ cực nhưng may mắn thi đỗ Cử
nhân khoa ấy.

Ủy Nương
giàu có, thường nghĩ tới bà vú chết vì mình, vẫn nghĩ cách đền ơn cho con bà
ta. Chồng bà vú họ Ân, có một con trai tên Phú, ưa cờ bạc, nghèo không có miếng
đất cắm dùi. Một hôm Phú đánh bạc cãi nhau, lỡ tay giết người, chạy trốn tới
Bình Dương, tuy không quen sinh nhưng biết Ủy Nương nên tới xin giúp đỡ. Sinh
mừng rỡ giữ lại hỏi han cặn kẽ, Phú nói tên họ người bị mình giết, té ra là
Phùng Mỗ. Sinh kinh sợ than thở hồi lâu rồi nói rõ, Phú mới biết Phùng là người
giết mẹ mình, càng thêm vui mừng, bèn ở lại làm thuê hầu hạ cho nhà sinh, cũng
ở gần đó. Tiết Dần Hầu tới ở nhà con rể, con rể cưới vợ cho, sinh được một trai
một gái.

217. Điền Tử Thành

Điền Tử
Thành ở huyện Giang Ninh (tỉnh Giang Tô) qua hồ Động Đình, bị đắm thuyền chết.
Con là Tiến sĩ Lương Tự cuối thời Minh, lúc ấy còn ẵm ngửa, vợ là Đỗ thị nghe
tin uống thuốc độc tự tử. Lương Tự được bà nội thứ nuôi nấng nên người. Sau đi
làm quan ở Hồ Bắc, hơn một năm vâng lệnh quan trên đi công vụ tới Hồ Nam. Lương
Tự tới hồ Động Đình thì khóc lớn quay về, tự trình là không đủ tài năng, bị
giáng làm Huyện thừa huyện Hán Dương, rất không vui bèn chối từ không nhận
chức. Các quan trên bắt ép thôi thúc mãi mới chịu đi, nhưng cứ rong chơi trong
chốn sông hồ, không vì đang làm quan mà giữ gìn câu nệ. Một đêm ghé thuyền bên
bờ sông, nghe thấy tiếng tiêu dìu dặt rất hay, bèn nhân có trăng lên bộ đi
khoảng nửa dặm thì thấy giữa bãi đất trống có vài gian nhà tranh lập lòe ánh
đèn.

Tới gần
nhìn vào cửa sổ thấy ba người đang uống rượu bên trong, ghế trên là một người
Tú tài tuổi khoảng ba mươi, ghế dưới là một ông già, ghế bên cạnh chính là
người thổi tiêu, trẻ tuổi nhất. Dứt khúc tiêu, ông già vỗ tay khen hay, người
Tú tài thì nhìn vào vách trầm tư tựa hồ không hề nghe thấy. Ông già nói: “Lô
Thập huynh ắt đã có thơ hay, xin ngâm lớn lên cho ta được nghe với,” người Tú
tài bèn ngâm:

Mãn giang phong nguyệt lãnh thê
thê,

Sấu thảo linh hoa hóa tác nê.

Thiên lý vân sơn phi bất đáo,

Mông hồn dạ dạ Trúc Kiều tê (tây).”

(Trăng
gió đầy sông lạnh tịch liêu

Hoa rơi
cỏ úa cảnh tiêu điều

Quê nhà
ngàn dặm bay không tới

Hồn mộng
đêm đêm cạnh Trúc Kiều.)

Tiếng
ngâm rất ai oán, ông già cười nói: “Lô Thập huynh cứ làm ra vẻ buồn rầu.” Rồi
lấy chén lớn rót rượu, nói: “Lão phu không thể họa thơ, xin hát để đưa cay vậy.”
Liền hát bài “Rượu ngon Lan Đình”[1],
hát xong mọi người đều vui vẻ. Thiếu niên đứng lên nói: “Ta ra xem trăng lặn
tới đâu rồi,” rồi sấn sổ bước ra, nhìn thấy khách vỗ tay nói: “Ngoài này có
người, bọn ta ngông cuồng bị bắt gặp rồi.” Liền kéo khách vào, Lương Tự chào
hỏi mọi người xong, ông già bảo ngồi đối diện với thiếu niên. Lương Tự nâng
chén rượu nhắp thử thấy lạnh ngắt, từ chối không uống. Thiếu niên biết ý lập
tức đứng dậy, vơ cỏ rơm hâm nóng bưng lên, Lương Tự cũng sai người hầu lấy tiền
đi mua rượu nhưng họ cố ngăn lại.

[1] Nguyên văn là “Lan Đình mỹ tửu” tức “Lan
Đình mỹ tửu uất kim hương”, câu trong bài Khách trung hành của Lý Bạch thời
Đường.

Nhân hỏi
tên họ quê quán, Lương Tự nói hết về mình, ông già kính cẩn nói: “Đó là quê cha
mẹ ta, ta họ Giang tên Thiếu Quân, sinh trưởng ở đây,” kế chỉ thiếu niên nói: “Đây
là Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây.” Lại chỉ người Tú tài nói: “Lô Thập huynh đây là đồng
hương với ông.” Lô nhìn Lương Tự có vẻ ngạo nghễ vô lễ, Lương Tự nhân hỏi: “Nhà
ông ở làng nào, thi tài như thế mà sao ta không được nghe ai nói?” Tú tài đáp:
“Xa nhà đã lâu, họ hàng cũng không ai biết, nghĩ thật đáng buồn, không muốn nói
ra.” Ông già xua tay rối lên nói: “Gặp được khách quý, không có tửu lệnh thì cứ
ăn nói lằng nhằng như thế, nghe chán lắm.” Rồi nâng chén uống một mình, kế nói:
“Ta có một cái lệnh xin mọi người cùng làm theo, ai không làm được sẽ bị phạt.
Cứ gieo ba hột xúc xắc, lấy chữ “Tương phùng” làm lệnh, lại phải có một khúc
hát cổ phù hợp.”

Rồi gieo
được ba mặt nhất nhị tam, bèn đọc: “Tam thêm nhị nhất cũng tương đồng. Xôi nếp
ba năm hẹn Phạm công[2]
mừng bè bạn tương phùng.” Kế tới thiếu niên gieo được hai mặt nhị một mặt tứ,
nói: “Người không đọc sách thì chỉ hát khúc dân dã, xin chớ cười. Tứ thêm hai
nhị cũng tương đồng, bốn người gặp gỡ ở thành đông[3], mừng huynh đệ tương phùng.” Lô gieo được hai mặt nhất một
mặt nhị, đọc: “Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Lữ Hướng hai tay ôm lão ông[4], mừng phụ tử tương phùng.”
Lương Tự gieo cũng được như Lô, đọc: “Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Mao
Dung hai chén đãi Lâm Tông[5]
mừng chủ khách tương phùng.”

[2] Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công: lấy tích
Trương Thiệu thời Hán vào nhà Thái học, chơi thân với Phạm Thúc. Khi về, Thúc
hẹn ba năm sẽ tới làm lễ ra mắt mẹ Thiệu. Gần đến ngày hẹn, Thiệu thưa với mẹ
xin giết gà đồ xôi để đợi, mẹ nói: “Xa cách ba năm, hẹn nhau ngàn dặm, sao con
tin quá thế!” Đến ngày hẹn quả nhiên Thúc tới. Đây ông già có ý nói Lương Tự là
bạn quý của mình.

[3] Bốn người gặp gỡ ở thành đông: lấy
tích ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thời Hán thua trận lạc
nhau mỗi người một nơi, sau Quan Vũ biết anh còn sống bèn từ giã Tào Tháo đi
tìm anh, cuối cùng ba người gặp nhau ở Cổ Thành, lại được thêm Triệu Vân. Đây
thiếu niên có ý nói Lương Tự là anh em với mình.

[4] Lữ Hướng hai tay ôm lão ông: lấy tích
Lữ Hướng thời Tấn có cha đi xa mấy năm không về, sau nghe đồn cha còn sống
nhưng Hướng đi tìm kiếm khắp nơi suốt mấy năm không gặp. Sau Hướng thi đỗ làm
quan, một hôm từ triều ra gặp một ông già, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội
xuống ngựa ôm chân cha khóc ròng rồi đón về nhà. Đây Lô có ý nói Lương Tự là
con mình.

[5] Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông: lấy
tích Mao Dung thời Hán chơi với Quách Thái tự Lâm Tông, Thái tới nhà Dung chơi
ngủ lại, sáng ra thấy Tông giết gà làm cơm, nghĩ rằng là để đãi mình, kế Dung
bưng thịt gà lên mời mẹ, còn mình dọn rau ăn chung với Thái, Thái phục là hiền.
Đây Lương Tự có ý nói tuy mình với ba người kia là bạn, nhưng còn có phận sự
của kẻ làm con nên phải ra về.

Xong lệnh
Lương Tự cáo từ ra về, Lô mới đứng lên nói: “Là người quê cũ, chưa kịp trò
chuyện gì nhiều, sao từ biệt sớm thế. Ta còn có chuyện muốn hỏi, xin nán lại
thêm một lúc.” Lương Tự bèn ngồi xuống, hỏi chuyện gì, Lô đáp: “Ta có người bạn
già chết đuối ở hồ Động Đình, có họ hàng gì với ông không?” Lương Tự đáp: “Đó
là cha ta, sao ông biết được?” Lô đáp: “Lúc trẻ chơi thân với nhau, lúc ông ấy
chết chỉ có ta nhìn thấy nên đã thu hài cốt chôn ở bờ sông.” Lương Tự rơi lệ
quỳ lạy xin chỉ mộ ở đâu, Lô nói: “Sáng mai tới đây ta sẽ chỉ cho, cũng dễ nhận
thôi, cứ ra cách đây mấy quãng, cứ thấy trên mộ có khóm lau rậm gồm mười cây là
đúng.” Lương Tự khóc ròng cáo từ mọi người, về tới thuyền cả đêm không ngủ
được. Lại sực nhớ tới lời lẽ thái độ của Lô như đều có duyên do, sốt ruột không
chờ được, mờ sáng trở lại chỗ đó thì không thấy nhà cửa gì cả, vô cùng khiếp
sợ.

Kế ra chỗ
Lô nói tìm quả nhiên thấy một ngôi mộ trên có khóm lau rậm, đếm thì đúng có
mười cây, sực hiểu rằng cái tên Lô Thập huynh là có ngụ ý, người mình gặp chính
là hồn cha. Hỏi kỹ dân ở đó thì hai mươi năm trước vùng này có ông họ Cao giàu
có hay làm điều lành, ai chết đuối đều tìm vớt thây chôn cất cho, nên có mấy
ngôi mộ ở đây. Bèn quật mộ thu lượm hài cốt trở lại thuyền, về nói với bà nội,
hỏi lại nét mặt tướng mạo thì đều đúng. Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây chính là anh con
cô con cậu với Lương Tự, năm mười chín tuổi chết đuối trên sông, sau đó người
cha tới lưu ngụ ở Giang Tây. Lại chợt nghĩ ra rằng sau khi Đỗ phu nhân chết thì
chôn ở phía tây Trúc Kiều, nên trong bài thơ của cha mới có câu cuối như vậy,
chỉ không rõ ông già kia là ai mà thôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3