Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 18 - Phần 1
Chương 18. LUDWIG BINSWANGER THUYẾT NHÂN CÁCH HIỆN SINH
CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH
1. Dẫn nhập
Tôi ghét tôi, tôi ghét tôi
Mặt đất sinh sôi
Còn tôi chả sinh ra điều gì cả.
Một vỏ ốc lăn lóc
Nứt nẻ, bỏ hoang, vô dụng.
Tạo hóa ơi, tạo hóa ơi,
Hãy thu tôi về trở lại,
Và tạo lại tôi lần thứ hai.
Ellen West là một cô bé lập dị, rất kén ăn, chống đối kịch liệt khi ai đó dỗ dành cô bé ăn lấy một chút thức ăn mà cô không thích. Cô bé quá ương bướng đến độ nổi tiếng. Cô phải là trung tâm của mọi sinh hoạt. Ở trường nội trú bao giờ cô cũng nhớ nhà. Đến tuổi dậy thì, cô bé đã nói: “Thà tôi là Hoàng đế Caesar chứ không ai khác!” Song chẳng ai có thể làm gì giúp cô bé được. Năm mười bảy tuổi, bài thơ Thần chết hãy hôn tôi, mô tả tâm trạng cô yêu cầu vị thần Biển hôn cô cho đến khi cô chết đi. Cô bé vùi mình vào công việc và tự ca tụng văn chương của mình là điều lành của cuộc đời.
Khi lên hai mươi tuổi, cô đến sống tại Sicily. Sau đó cô ăn uống ngon lành và lên cân nhưng bạn bè bắt đầu trêu ghẹo. Thế là cô bé phản ứng lại bằng cách kiêng ăn và đi bộ một cách hết sức hăng hái vì bị ám ảnh bởi tình trạng béo phì. Cô luôn ghét chính mình vì nghĩ mình quá mập và cho rằng chỉ có cái chết mới là cách giải quyết vấn đề.
Rồi cô lại vùi vào công việc và thoát khỏi tình trạng trầm uất, song cô luôn đem theo mặc cảm và trạng thái mệt mỏi. Cô bắt đầu tích cực hoạt động mong rằng mình sẽ thay đổi được xã hội, nhưng cô kín đáo tin rằng chuyện ấy chỉ là lãng phí và vô dụng.
Khi cha mẹ cô can thiệp vào chuyện cô làm đám hỏi với một sinh viên, cô rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm thần. Cô bỏ về từ khu nghỉ mát, người gầy rạc đi và ngã bệnh. Cô tin mình bị ám ảnh bởi tình trạng béo phì đó là nguyên nhân sức khỏe sa sút của mình. Bác sĩ đã đề nghị cô nghỉ ngơi trên giường và sau đó cô lại có vẻ mập thêm lên một chút. Nhưng rồi cô lại chống đối chỉ định của bác sĩ và lại làm việc cật lực để trở về tình trạng gầy còm.
Năm hai mươi tám tuổi, cô đám cưới với anh họ của mình và hy vọng cuộc hôn nhân sẽ giúp cô gạt bỏ hết những tư tưởng muốn gầy kia. Sau lần đầu sảy thai, cô giằng xé phân vân giữa muốn có con nhưng không chịu ăn uống bồi bổ. Sau đó cô bắt đầu uống thật nhiều thuốc xổ ở tuổi ba mươi ba, một ngày cô uống 60 hoặc 70 viên thuốc xổ mỗi ngày, ói mửa vào ban đêm và đi tả vào ban ngày. Cô chỉ còn lại 92 pounds và gầy như một bộ xương.
Sau đó cô đồng ý đi gặp bác sĩ tâm thần, hết người này sang người khác. Cô thực hiện hai cuộc tự tử nhưng không thành. Cuối cùng người ta đưa cô vào bệnh viện nội trú Kreuzlingen. Tại đó cô sống yên ả với chồng dưới sự chăm sóc của Ludwig Binswanger. Với một chế độ ăn uống và thuốc an thần, cô bắt đầu khỏe mạnh hơn, nhưng vẫn nặng nề u ám với tư tưởng sợ hãi.
Vì cô vẫn cố ý muốn tự tử, vợ chồng cô được đề nghị phải lựa chọn: cô sẽ được đưa vào khu vực cấm và ở nơi đó cô có thể sẽ tiều tụy lụi tàn hoặc sẽ trở về nhà. Hai vợ chồng đã quyết định về nhà.
Vào lúc này cô cảm thấy dễ chịu hơn vì cô biết mình phải làm gì. Cô ăn uống vui vẻ, ăn cả kẹo sôcôla, ăn no bụng sau hơn mười ba năm trời. Cô nói chuyện vui vẻ với chồng, viết thư cho một vài người bạn thân. Và sau đó cô uống một liều thuốc độc cực mạnh.
Câu chuyện buồn này là một trong những ca nổi tiếng trong nghiên cứu không phải vì vấn đề là bệnh sợ ăn vốn xảy ra nhiều nơi phụ nữ. Song đây là một ca mà thân chủ đã có khả năng bộc bạch cách nhìn của mình vào vấn đề của bản thân. Câu chuyện cũng xoay quanh về người bác sĩ tâm thần đã quyết định lắng nghe lời tâm sự của bệnh nhân. Sau đây là một bài thơ khác của Ellen West:
Tôi muốn chết như loài chim vẫn chết
Chẻ đôi cuống họng trong tiếng hót sướng vui
Không còn sống như con sâu trên đất
Trở thành già nua, xấu xí, ngù ngờ ngốc nghếch.
Không, hãy nghe đi một lần trong tôi dạt dào bốc cháy
Cháy bùng lên, ngọn lửa hãy nuốt lấy thân tôi.
Ellen trong thời ấu thơ đã chia đôi cuộc đời của mình giữa hai thế giới. Cuộc sống của cô vẫn như đang bị giam trong một nấm mồ, chôn chặt sự tồn tại của cô về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhu cầu cơ thể của cô chỉ cần rất ít từ cuộc đời, nhưng đã can thiệp vào mục đích sống của cô. Càng lớn, cô càng thấy mình tù túng chật hẹp trong một xã hội bị ô nhiễm. Những con người xung quanh cô có vẻ chóng quên những điều độc ác và tất cả đều đau khổ. Trong thế giới nấm mồ, mọi thứ tan rữa và sẽ mục nát, mọi thứ đều bị kéo xuống, một nấm mồ, một lỗ sâu.
Và Ellen West đã sống một đời sống trong thế giới giải thoát, thế giới của tâm hồn, trong sạch và thuần túy, nơi những khát khao được trao tặng và đáp ứng. Trong thế giới do những hành động đều không cần đến cố gắng vì đã được cởi ách thoát khỏi sức nặng của vật chất. Trong thế giới giải thoát, con người ta hoàn toàn tự do và có thể bay bổng.
Có nhiều người né tránh thế giới giải thoát. Họ không thích những lo lắng và những trách nhiệm thường đi đôi với sự tự do. Họ thà chấp nhận việc mình được sai khiến và làm các việc theo mô hình tập trung như, làm việc trong một cơ quan đông người, gia nhập một tổ chức tôn giáo, hay trở thành một thành viên của một băng nhóm. Tuy vậy họ vẫn rất lo lắng và sợ hãi, vì trong thâm tâm họ biết việc tham gia vào một nhóm rộng lớn hơn vẫn là một điều gì đó tạm bợ vay mượn. Họ chẳng bao giờ sống cuộc sống của mình thực sự và không bao giờ có được hạnh phúc.
Nhiều người đi tìm sự hướng dẫn từ chính cơ thể của họ. Họ bắt đầu bằng cách đi tìm những lạc thú đơn giản. Nhưng sau đó họ tìm thấy những lạc thú này trở nành nhạt nhẽo, nhàm chán. Vì thế họ sẽ thay thế những lạc thú này bằng những lạc thú mới khác như sử dụng một loại thuốc phiện hay những hành vi thiếu lành mạnh khác. Họ luôn chạy đi tìm những kênh cảm xúc mới. Và tất nhiên là họ vẫn không thể mãn nguyện trước. Họ cảm thấy thất bại, không phải vì không đạt được khoái cảm mà đơn giản là họ chỉ tìm thấy khoái cảm là một trạng thái tạm bợ đánh lừa.
Ellen West cố tình lảng tránh thế giới nhà mồ. Cô muốn tự do bay bổng cao hơn thế giới vật chất tầm thường để bay vào thế giới giải thoát, bay vào cõi tốt lành và sạch sẽ, đầy những điều công bằng đạo đức. Trong một góc nhỏ của mình, cô đã cố gắng đạt đến sự thành công bằng cách giảm cân, tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ.
Chúng ta không thể né tránh cuộc đời chỉ vì một bộ phận cơ thể chúng ta không muốn. Chúng ta không thể né tránh thân xác cơ thể hay né tránh tâm hồn của mình. Dù chấp nhận hay không, chúng ta vẫn vừa là những con chim hay những con sâu trên mặt đất. Chẳng có gì là tệ cả đấy chính là hai thái cực cao và thấp, đen và trắng, sáng và tối luôn luôn tồn tại trong thân phận con người.
2. Tiểu sử của Ludwig Binswanger
Ludwig Binswanger sinh ngày 13 tháng 4 năm 1881 tại Kreuzlingen, Switzerland trong một gia đình có truyền thống y học và đã có vài người là bác sĩ tâm thần. Ông nội của ông vốn cùng tên Ludwig đã sáng lập ra Bệnh viện nội trú Kreuzzlingen năm 1857. Cha của ông là Rchert, có thời kỳ đã là giám đốc của bệnh viện này. Ông chú của Ludwig khám phá ra bệnh Binswanger (một chứng bệnh tương đối giống với bệnh Alzheimer: bệnh giảm khả năng trí tuệ vì thoái hóa não).
Ludwig Binswanger trở thành bác sĩ y khoa từ trường Đại học Zurich năm 1907. Ông nghiên cứu và học tập dưới sự hướng dẫn của Carl Jung, đồng thời giúp Jung trong Tổ chức Freudian. Giống như Jung, ông thực tập dưới sự chỉ đạo của Eugen Bleuder, người đã tìm ra và đặt tên cho chứng bệnh tâm thần phân liệt.
Jung giới thiệu Binswanger với Sigmund Freud năm 1907. Đến năm 1911, Binswanger trở thành giám đốc điều khiển tại bệnh viện nội trú Bellevue. Năm kế đến, ông bị ốm và đến thăm Freud, vẫn nhớ là Freud là người rất ít khi rời khỏi Vienna. Tình bạn của họ kéo dài cho đến khi Freud qua đời vào năm 1939, mặc dù hai người họ có nhiều quan điểm khác nhau về học thuyết.
Từ những năm 20, Ludwig đã xây dựng một hứng thú trong thuyết hiện sinh được tìm thấy nơi Edmund Husserl, Maritn Heidegger và Martin Buber. Ông càng lúc càng tách xa khỏi học thuyết theo trường phái Freudian. Từ những năm đầu thập kỷ 30, ông chính thức được coi là một trong những nhà liệu pháp hiện sinh. Vào năm 1943, ông công bố tác phẩm nghiên cứu của mình (Grundformen und Erkeuntnis menschlichen Daseins), vốn chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh.
Năm 1956, Ludwig Binswanger từ chức bác sĩ trưởng tại Bellevue sau 45 năm làm việc ở đó. Sau đó ông tiếp tục viết cho đến khi qua đời vào năm 1966.
3. Học thuyết của Ludwig Binswanger
Tâm lý hiện sinh – giống trường phái Freudian – là một trường phái tư tưởng, một học thuyết truyền thống, nghiên cứu và áp dụng thực hành liên hệ đến nhiều nhà tâm lý tên tuổi. Khác với thuyết Phân tích tâm lý, thuyết Tâm lý hiện sinh không có một nhà sáng lập riêng mà là sản phẩm chung của một nhóm nhà triết học cuối nửa thế kỷ XIX, tiêu biểu là Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche.
Kierkegaard và Nietzsche khác nhau như ngày và đêm. Kierkegaard hứng thú trong việc khôi phục lại niềm tin sâu sắc vào tôn giáo khô khan của thành phố Copenhagen ngày ấy, trong khi đó Nietzsche là người nổi tiếng vì thái độ của mình khi ông phát biểu: Thượng Đế đã chết thật rồi. Nói chung là họ khác nhau về nền tảng triết lý, tuy cả hai tìm đến quan điểm phục vụ con người thật (real people). Cả hai đều rất tâm huyết với những vấn đề khó khăn trong đời sống của con người. Hai ông cho rằng sự hiện diện của con người không thể gói gọn trong những hệ thống lý luận phức tạp (complex rational systems), tôn giáo hay triết học. Cả hai ông đều gần gũi với thơ ca nhiều hơn là với những nhà lý luận.
Sau Kierkegaard và Nietzsche, tương đối nhiều nhà triết lý (hiện nay là nhiều nhà tâm lý) đã cố gắng giải thích và phục hồi ý tưởng hiện sinh. Một số người vì không thích thơ ca lắm nên việc đọc những tác phẩm gốc của hai ông rất khó khăn. Họ cảm thấy phải bơi ngược dòng thời gian ngôn từ để có thể lĩnh hội được những luồng tư tưởng lớn này. Nhiều nhà tâm lý đã chịu ảnh hưởng tâm lý hành vi và tâm lý sinh lý, nên việc nắm vững học thuyết Hiện sinh là một điều hiển nhiên khó. Nhất là hiện nay chúng ta đã quá tin vào khoa học và lôgíc.
4. Hiện tượng học
Hiện tượng học là phương pháp nghiên cứu cẩn thận và hoàn thiện về những hiện tượng khó giải thích nơi tâm thức con người. Hiện tượng là nội dung của cõi ý thức như: các đức tính, các mối quan hệ, những sự kiện, những tư tưởng, hình ảnh, trí nhớ, ảo tưởng, cảm giác, hành vi… mà chúng ta đã trải nghiệm qua. Hiện tượng học là một cố gắng giải thích để chúng ta hiểu và tiếp cận với những kinh nghiệm này, từ đó ta có thể diễn đạt chúng một cách khách quan và chính xác nhất.
Nếu một nhà tâm lý đã được huấn luyện về thí nghiệm, thuyết Hiện sinh là một kênh tiếp cận với đối tượng một cách hoàn toàn khác hẳn. Trong khoa học và tâm lý thực nghiệm, chúng ta có xu hướng gạt bỏ tất cả những chủ quan của mình và nhìn bản chất của một sự kiện một cách khách quan nhất. Nhà hiện sinh cho rằng chúng ta không thể gạt bỏ tất cả yếu tố chủ quan khi đánh giá bản chất của một sự kiện, dù ta có cố gắng đến đâu đi chăng nữa. Ống kính khoa học muốn nhìn sự kiện một cách cụ thể chắc chắn, tuy nhiên theo các nhà hiện sinh thì đặc tính chủ quan vốn là một đặc tính không bao giờ hoàn toàn tách khỏi đặc tính khách quan được.
Hầu hết các triết lý hiện đại, bao gồm cả triết lý Hóa học có khuynh hướng chia đôi. Họ thích chia đôi thế giới trở thành hai phần: Bộ phận khách quan được coi là bộ phận vật chất và bộ phận chủ quan là phạm trù cõi ý thức. Kinh nghiệm của chúng ta có những liên hệ với cả hai bộ phận nói trên. Khoa học hiện đại tập trung vào khách quan, bộ phận vật chất và cố gắng gạt bỏ yếu tố chủ quan. Nhiều người gọi cõi ý thức là hệ lụy, một sản phẩm phụ của phản ứng hóa học nơi bộ não và những quá trình vận hành của não, một đại lượng nói chung không quan trọng. Nhà tâm lý hành vi B. F. Skinner đã coi cõi vô thức không là điều gì cả.
Các nhà hiện sinh cho rằng suy nghĩ như thế là một sai lầm. Tất cả những đối tượng của khoa khoa học đều đi qua cõi vô thức. Mọi điều chúng ta trải nghiệm đều nhuốm màu chủ quan. Một cách dễ nhìn ra là không có kinh nghiệm nào không liên hệ đến cả hai bộ phận. Và họ gọi đây là quá trình cố ý.
Vì thế hiện tượng học yêu cầu tất cả những đối tượng nghiên cứu – dù là bên ngoài hay bên trong hệ tâm thức thúng ta, về con người, về sự hiện diện của con người – hãy để những đối tượng nghiên cứu ấy trình bày bản chất thật sự của chúng. Vì thế ta cần mở rộng với những kinh nghiệm bằng cách không phủ nhận những đại lượng phạm trù không thể đo đạc được, như các khung giá trị tinh thần: triết lý sống, học thuyết tâm lý, và lăng kính tôn giáo. Ngành Hiện tượng học yêu cầu chúng ta nên dẹp bỏ não trạng thực tế khách quan để đánh giá xem một kinh nghiệm xem sự thật là cái gì? Vì kinh nghiệm là một trải nghiệm rất riêng của mỗi người.
Hiện tượng học là một hướng đi xuất phát từ lĩnh vực siêu nhiên. Tâm lý thực nghiệm chọn lựa những chủ thể một cách thật vô tư để gạt bỏ những cơ hội chủ quan có thể xảy ra (nói theo thuật ngữ thống kê). Các nhà hiện tượng học có xu hướng nghiên cứu chung để cách nhìn của họ được gộp lại, tạo thành một sự hiểu biết toàn diện và phong phú hơn về một hiện tượng. Quá trình này gọi là gian thoa chủ quan.
Đây là một phương pháp thích hợp nhất được áp dụng trong nghiên cứu những cảm xúc khác nhau, những bệnh lý tâm lý, các trạng thái lo lắng chia rẽ, cô đơn, cô độc, kinh nghiệm của các nghệ sĩ lớn, những kinh nghiệm tôn giáo, sự im lặng và ngôn ngữ, cách nhìn và hành vi. Ngoài ra họ còn nghiên cứu về sự hiện diện của con người, đáng kể nhất là Martin Heidegger và Jean–Paul Sartre. Những não thức phức tạp của đời sống phong phú chính là đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa hiện sinh.
5. Sự hiện diện
Kierkegaard đã có lần so sánh chúng ta với Thượng Đế, dĩ nhiên là chúng ta không thể bằng Thượng Đế được. Thượng Đế được coi là biết hết mọi sự, toàn năng, và vĩnh hằng. Còn chúng ta là những chủ thể rất gàn bướng trong nếp nghĩ một chiều, yếu đuối một cách đáng thương và tất cả chúng ta đều chết. Giới hạn của chúng ta quá rõ ràng hiển nhiên.
Chúng ta thường muốn mình được trở nên gần giống với Thượng Đế hơn, hoặc ít nhất cũng là những thiên thần. Dù sao thiên thần cũng không quá ích kỷ trong nếp nghĩ và không quá yếu đuối như con người. Và đặc biệt là thiên thần sẽ không bao giờ chết. Như Mark Twain đã vạch ra: Nếu chúng ta là những thiên thần - chúng ta sẽ không nhận ra mình – Thiên thần chẳng làm gì cả ngoài sự chỉ dẫn của Thượng Đế. Họ chẳng làm được gì để thay đổi tình trạng này. Họ đơn giản chỉ tồn tại theo kế hoạch của Thượng Đế và tồn tại muôn đời như một chủ thể lệ thuộc, hoàn toàn vô nghĩa hiểu theo một nghĩa nào đó. Thiên thần đối với Thượng Đế cũng như cái áo đối với chúng ta. Cả hai đều có danh xưng, có mục đích, có tính năng, một chủ thể được tạo ra để phục vụ. Thiên thần cũng thế họ được tạo ra có danh xưng, mục đích, tính năng và nhất là để phục vụ Thượng Đế.
Con cò bay trên cánh đồng cũng thế. Chúng có những kế hoạch hoặc chương trình được cài đặt trong hệ thống di truyền của mình. Chúng vận hành và sinh hoạt dựa trên những điều khiển của bản năng đã thúc giục và hướng dẫn chúng.
Làm một cái áo, một con cò, một thiên thần thật dễ dàng quá. Mục đích của những chủ thể này có trước sự hiện diện: nghĩa là mục đích hiện diện của chúng đã có trước những hành vi của chúng.
Tuy nhiên, các nhà hiện sinh cho rằng con người hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta hiện diện trước khi có sự xuất hiện mục đích của chúng ta, như Sartre đã nói. Chúng ta thường không biết mục đích cuộc đời của mình cho đến khi chúng ta phải sống. Cuộc đời chúng ta, ta là ai? – không phải do Thượng Đế quyết định, không bởi định luật của tự nhiên, chẳng phải bởi di truyền, không bởi xã hội mà họ đang sống, và càng không phải từ gia đình chúng ta. Những phạm trù nói trên chỉ cung cấp những nguyên liệu thô để ta kiến tạo nên cuộc đời chúng ta. Ta là ai? Đấy là những chọn lựa chúng ta sử dụng để tiếp cận cuộc đời. Nói khác đi, chúng ta là người kiến tạo cuộc đời của chính mình.
Các nhà khoa học nhắm đến cấu trúc và vận hành có thể đo đạc được. Thuyết Hiện sinh trong khi đó lại nhắm đến kinh nghiệm mà mỗi cá nhân đã từng sống qua.
Bản chất mục đích của nhân loại – một đại lượng chung mà tất cả chúng ta thừa hưởng đã khiến chúng ta khác hơn những sinh vật khác trong thế giới này. Chính vì thiếu bản chất mục đích này đã dẫn đến tình trạng trống rỗng. Tự do của mỗi chúng ta không thể bị gói gọn trong một khung triết lý hay học thuyết tâm lý, chúng ta không thể phân chia trở thành những quá trình vận hành vật lý hay những phản ứng hóa học. Tương lai của chúng ta không thể tuyệt đối dựa vào những phỏng đoán thống kê. Ta có thể là da màu hay da trắng, chúng ta lớn lên trong những điều kiện văn hóa khác nhau, có người may mắn trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau về những cơ duyên và vận hội. Những nguyên liệu thô này rất khác nhau đối với nhiều người trong chúng ta. Tuy vậy, tất cả chúng ta vẫn có chung một nhiệm vụ phải làm là: Kiến tạo chính bản thân mình.
6. Liên tục hiện diện
Đây là một khái niệm được mượn từ tiếng Đức – Dasein có nghĩa là liên tục hiện diện, cố gắng đeo đuổi, sinh tồn. Khái niệm này được dịch ra tiếng Anh và có một ý nghĩa mới: Hãy ở đó. Đây là khái niệm của triết lý gia người Đức Martin Heidegger. Các nhà Hiện sinh học coi đây là trung tâm điểm của hệ thống học thuyết.Âm da trong từ da–sein có nghĩa là đó. Điều này cho thấy các nhà Hiện sinh có cơ sở để xác định khái niệm một chủ thể nằm ở giữa một hệ thống phức tạp và hỗn độn. Hơn nữa ở đó không nên chỉ được hiểu là không phải ở đây, mà là một khái niệm chứng minh rằng chúng ta luôn thuộc về một thế giới khác, một thế giới mà chúng ta thật sự không thuộc về nó.
Không có một thuật ngữ dịch nghĩa cụ thể nhất về từ dasein, nhiều người sử dụng từ hiện sinh, mục đích hiện diện đã cố gắng chuyển ngữ khái niệm này. Từ hiện sinh trong tiếng Anh là existence có nguồn gốc từ tiếng La tinh ex–sistare, có nghĩa là bước ra, đi ra, đứng ra khỏi một giới hạn. Và khi đối chiếu với từ da–sein trong tiếng Đức, ta thấy ngay ý nghĩa liên hệ. Vì thế dasein có nghĩa trở thành một điều gì đó khác hơn, di chuyển xa hơn và xuyên qua chính con người của mình, trở thành một chủ thể mới trong một thế giới hoàn toàn khác.
Heidegger cho rằng da–sein là quá trình mở rộng mình ra, giống như một cánh đồng cỏ, một khoảng trống bao bọc bởi những cánh rừng rậm, vì da–sein cho phép thế giới được phô bày bản chất thực của nó. Sartre cũng nhìn nhận khái niệm khoảng trống mở ra này, và gọi đây là trạng thái không–có–gì–cả của sự hiện diện con người, giống như một lỗ thủng chỉ tồn tại khi xung quanh nó là một thế giới đặc kín. Hiện diện vì thế đã trở thành một trạng thái đứng riêng rẽ độc lập, đối nghịch với sự dày đặc của những đại lượng phạm trù khác.
Đặc tính quan trọng nhất của dasein, theo Heidegger là quan tâm. Hãy ở đó không phải là để hờ hững né tránh. Chúng ta liên hệ với thế giới, với những chủ thể khác, và với cả chúng ta nữa. Chúng ta gắn bó trong việc có trách nhiệm và những đầu tư vào cuộc sống. Chúng ta có thể và bắt buộc phải làm nhiều điều. Bỏ mặc và vứt hết quan tâm không phải là một tính năng đặc trưng của con người.