Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 18 - Phần 2

7. Bị ném vào thế giới

Đây là một khái niệm tin rằng chúng ta bị ném vào cuộc đời này mà không có sự đồng ý của chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu có nhận thức, chúng ta bắt đầu với quá nhiều chọn lựa được thiết kế và chuẩn bị sẵn sàng cho chúng ta đến từ di truyền (ta chẳng thể chối bỏ chiều cao và giới tính của mình), từ môi trường (ta không muốn sinh ra ở một làng nghèo vùng sâu vùng xa), từ xã hội (ta muốn mình sinh ra ở London, thay vì ở New Delhi), và từ gia đình (ta không muốn mình sinh ra trong gia đình nghèo). Đây là những nguyên liệu thô, một cách giải thích rằng "tôi" mặc dù tỉnh táo và tự do, vẫn không thể thoát khỏi những ràng buộc đã được thiết kế sẵn và tôi chẳng còn lựa chọn nào khác nữa.

Ví dụ như cơ thể chúng ta, ta là chủ nó và nó thuộc về ta. Ta có thể đi, đứng, nói, cười, lắng nghe. Chúng ta nhìn, nghĩ, có cảm xúc, rồi hành xử dựa vào cơ thể của mình, và đây là một thực tế. Hiện diện của chúng ta sẽ ra sao nếu cơ thể của mình không tồn tại? Song cơ thể chúng ta thực sự hiện diện như bao chủ thể khác. Sẽ có lúc cơ thể chúng ta không phục tùng chúng ta nữa, hoặc đôi khi chúng còn là gánh nặng cho chúng ta. Chẳng hạn như bệnh tật – nhưng ta vẫn phải là ta. Rồi có lúc thế giới bên ngoài xâm nhập vào cơ thể chúng ta: Một cái nạng gỗ, một cặp mắt kính cận, một quả tim nhân tạo, một cái chân giả, răng giả, van tim giả… Có lúc bạn liên hệ với thế giới qua điện thoại, viết thư chứ không phải trực tiếp mặt đối mặt. Cứ thế ta thấy mình trộn lẫn vào thế giới và thế giới thẩm thấu vào chúng ta. Và rồi trong nhiều trường hợp ta không còn biết ai là chủ của ai nữa.

Bị ném vào thế giới còn được hiểu như là chúng ta được sinh ra vào một xã hội đã định hình. Xã hội đã tồn tại có trước chúng ta, văn hóa có mặt trước khi ta cất tiếng khóc chào đời. Ngôn ngữ ta nói có trước chúng ta cả ngàn năm. Cha mẹ chúng ta là những người bị ném vào thế giới trước chúng ta. Tới phiên chúng ta nhập cuộc, ta đến với cuộc đời này là đứa trẻ yếu ớt không thể tự tồn tại, vì thế chúng ta phải dựa vào họ để tiếp tục tồn tại.

Ngay cả khi lớn lên, chúng ta vẫn lệ thuộc vào những con người khác. Có lúc ta trở thành nạn nhân của người khác. Có lúc ta tin rằng họ không thể bằng chúng ta. Chúng ta lừa gạt sự tự do của mình và chấp nhận thuần phục xã hội vì không còn nhiều lựa chọn khác tươi sáng hơn. Đây là khái niệm mà các nhà hiện sinh gọi là: Sự sụp đổ của chúng ta.

Binswanger đã đi theo nhà triết học Martin Buber, khi ông giới thiệu thêm những khía cạnh tích cực vào khái niệm sự sụp đổ của chúng ta. Bằng cách này chúng ta được phép tìm đến cái chung giữa bản thân ta và thế giới giúp cho quá trình liên hệ giữa chúng ta và người khác, để xây dựng những khung tình cảm. Nếu da–sein là mở rộng, chúng ta có thể mở rộng mình ra với thế giới. Chúng ta thật ra không đóng chặt như nhiều nhà hiện sinh đã tin như thế. Binswanger cho rằng đây là khả năng tiềm tàng trong mỗi cá nhân, đối chiếu với da–sein, khả năng này được hiểu là hiện diện ngay bên ngoài thế giới của mình.

8. Nguồn gốc của sự lo lắng

Các nhà hiện sinh học luôn cho rằng cuộc sống thật khắc nghiệt. Thế giới cung cấp cho chúng ta cả khoái cảm lạc thú và những nỗi đau. Theo họ, thế giới xã hội dạy cho chúng ta hằn học, đau khổ, cô đơn nhưng cũng cho chúng ta nhìn thấy chân dung của tình thương tình yêu, và những cảm xúc ấm áp nồng nàn. Trong đó thế giới nội tâm chất chứa những lo lắng, mặc cảm, và cả sự cảnh giác băn khoăn về sự chết không tránh khỏi. Những đại lượng tiêu cực này không phải là những điều khả dĩ sẽ có thể xảy ra, mà là những điều tất yếu xảy ra không tránh khỏi.

Vì thế tự do là có quyền lựa chọn trong lối tiếp cận với cái chết không tránh khỏi. Theo các nhà hiện sinh học thì con người đã bị ép buộc phải chọn lựa, như Sartre đã nói thế, và một điều chúng ta không thể nói là mình muốn chọn hay không chọn. Nói khác đi chúng ta không có quyền được KHÔNG CHỌN. Chúng ta vẫn cứ phải chọn lựa hàng ngày, ngay cả khi chúng ta lảng tránh hờ hững với chọn lựa về sự yếu đuối và thực tế là sẽ phải chết, dựa theo phân tích của Kierkeggard. Điều khó chịu ở đây, chúng ta thường chẳng có đủ dữ kiện để có một lựa chọn thỏa đáng. Nhưng ta vẫn chọn lựa, chẳng bao giờ hoàn hảo.

Kierkegaard, Heidegger và những nhà hiện sinh học khác sử dụng thuật ngữ lo lắng để áp dụng vào nỗi lo sợ khi chúng ta đi vào cõi mông lung không chắc chắn khi đối diện với tương lai của mỗi chúng ta. Chính cõi mông lung không chắc chắn trở thành nỗi lo sợ, tập trung vào sự giận dữ và tuyệt vọng đau khổ đến từ nhu cầu phải chọn lựa. Chúng ta luôn bị dằn vặt bởi những chọn lựa của mình. Chúng ta băn khoăn lo lắng không biết xem nếu như các chọn lựa của chúng ta là đúng hay sai. Chúng ta sốt ruột muốn biết các chọn lựa ấy có chuyển tải được khát khao của chúng ta hay không. Theo các nhà hiện sinh thì trạng thái lo lắng khác với nỗi lo sợ. Lo sợ thường có một tác nhân gây sợ định hình, còn lo lắng thường ám chỉ về một trạng thái cảm xúc mơ hồ về sự hiện diện của bản thân với những liên hệ khác.

Các nhà học thuyết hiện sinh thường nói về trạng thái trống rỗng trong liên hệ với lo lắng. Bởi vì chúng ta không phải là con cò, là cái áo hay những thiên thần, bằng lòng với sự sắp đặt, cảm giác lo lắng đến và đôi lúc ta cảm thấy mình sắp sửa rơi vào trạng thái trống rỗng. Chúng ta muốn mình trở thành đá cuội đặc cứng, đơn giản, và tồn tại mãi với thời gian, nhưng chúng ta phát hiện ra mình đang bơi lội trong vòng xoáy. Vì thế cảm giác lo lắng không thể là một điều tạm thời khó chịu có thể xử lý bởi nhà trị liệu, vì cảm giác lo lắng là một bộ phận thường trực của con người.

9. Mặc cảm

Chủ nghĩa hiện sinh không phải là một triết lý đơn giản. Nó không cung cấp cho chúng ta đầy đủ những ngõ thoát để ta có thể né tránh trách nhiệm về những hành động của chúng ta. Chúng ta không thể trút tất cả trách oán lên môi trường sống, lên hệ thống di truyền của cơ thể, lên cha mẹ chúng ta, hay là những căn bệnh tâm thần, rượu, thuốc phiện, sức ép của bạn bè xung quanh, kể cả những con người độc ác khác…

Heidegger sử dụng một từ trong tiếng Đức: Schuld – để mô tả về trách nhiệm của chúng ta với bản thân mình. Đây là từ mang cả hai nghĩa: mặc cảm và mắc nợ. Nếu chúng ta không làm điều mình nên làm, ta cảm thấy mặc cảm. Và như thế chúng ta mắc nợ với trạng thái hiện diện của mình. Và vì trạng thái hiện diện luôn trong tình trạng vận động và phát triển nên chúng ta không bao giờ hoàn tất việc trả nợ. Chúng ta luôn dối diện với tâm trạng bỏ dở chưa kịp hoàn thành, tương tự như cảm giác chúng ta bị chất vấn bởi sự thiếu nhất quán của bản thân mình.

Xem ra chỉ có một trạng thái có thể đem lại quân bình cho tâm thức con người là hối hận. Hối hận là chất liệu để khỏa lấp khoảng trống, hối hận về những điều chúng ta đã làm – chưa kịp làm – cố ý làm để hại người khác. Chúng ta còn mặc cảm cả với những hành vi trong quá khứ chẳng gây hại đến ai nhưng gây hại đến chính chúng ta. Nhất là khi chúng ta chọn lựa những con đường tắt, chọn những lối đi dễ dàng, làm ít, làm lấy lệ, làm chưa tận sức, khi chúng ta đánh mất chính mình, đi lạc hướng, lãng phí tuổi xuân, bỏ lỡ những cơ hội vàng.. và rồi chúng ta hối hận.

10. Cái chết của chúng ta

Các nhà học thuyết hiện sinh đôi khi được coi là tập trung quá nhiều vào chết chóc. Đúng vậy. Họ thường nói về sự chết có vẻ sâu sắc hơn các học thuyết khác, nhưng đây không phải là một địa hạt hứng thú đối với tất cả chúng ta. Chỉ khi nào thật sự nhìn thấy và đối diện với cái chết gần nhất thì thúng ta mới nhận ra ý nghĩa của sự sống. Trong vở kịch Những con ruồi (The Flies) của mình. Sartre viết: “Đời sống bắt đầu từ phía xa xăm bên kia của tuyệt vọng”.

Heidegger cho rằng chúng ta là những sinh thể hướng về sự chết. Con người là những sinh thể duy nhất có cảm giác ý thức về cái chết của chính mình. Khi chúng ta ý thức được về số phận mỏng manh không tồn tại mãi mãi, ban đầu chúng ta né tránh thực tế này bằng cách quên đi chúng qua việc biến mình trở thành bận rộn với những công việc hàng ngày. Nhưng bằng cách này chúng ta vẫn chẳng giải quyết được điều gì cả. Lẩn tránh cái chết là lẩn tránh chính sự sống.

Nhiều người vừa ẵm đứa con sơ sinh của mình đã nghĩ ngay đến một ngày họ và em bé sẽ chết. Ta nhìn vào người vợ, người chồng của mình, đang sống rất hạnh phúc nhưng chúng ta cũng có lúc nghĩ đến sự chết. Phải chăng khi người cha nghĩ về sự chết của mình và đứa con, ông sẽ cảm nhận được thời gian chỉ là một đại lượng không thể kéo giãn mãi ra được, và như thế ông sẽ yêu con của mình nhiều hơn. Nếu ý thức của mình không sống mãi mãi, con người ta sẽ quên đi những hằn học hận thù. Khi nhận diện ra bản chất thực của cái chết, ta thấy một giây phút sống không ý nghĩa sẽ là một giây phút lãng phí mãi mãi.

Sau đây là lá thư mà nhà soạn nhạc piano Mozart đã diễn tả về cái chết khi ông viết cho người cha của mình:

Con sẽ nói với cha rằng con không còn thấy lo lắng về cái chết trước mắt. Mọi sự đã trở nên dễ chịu hơn. Vì cái chết (con cố ý nói về cái chết) chính là mục đích đời sống của mỗi chúng ta. Con đã tìm thấy mình trở thành quen thuộc với sự thật này và cái chết chính là người bạn thân nhất của con. Ý tưởng chết chóc không còn khiến con lo sợ nữa, mà là một cảm giác yên ắng nhẹ nhàng. Con cảm ơn Thượng Đế đã cho con có cơ hội được nhìn vào cái chết như một chìa khóa để tìm ra hạnh phúc đích thực. Con chưa bao giờ nằm xuống mỗi đêm trước khi đi ngủ mà không nghĩ rằng, mặc dù con còn rất trẻ, có lẽ ngày mai thức dậy con sẽ không còn tồn tại nữa. Nhưng chẳng ai biết con sẽ nói là con sẽ buồn bã hay yếm thế, vì thế con rất cám ơn tạo hóa đã ban cho con sự sống hàng ngày. Và con ao ước rằng Ngài sẽ ban tặng điều tương tự ấy cho tất cả những anh em đồng loại của mình.

11. Sống thật với chính mình

Không giống với những nhà học thuyết nhân cách khác, các nhà hiện sinh học không có ý né tránh giá trị của phán quyết. Nói theo ý nghĩa hiện tượng học, xấu và tốt là hai phạm trù tồn tại rất thực như bao nhiêu phạm trù đời sống khác. Chúng ta có thể lựa chọn một cách sống cho mình vì có nhiều cách sống tốt đẹp hơn những cách sống khác. Cách sống tốt đẹp hơn được các nhà hiện sinh gọi là sống thật lòng mình. Để sống thật với chính mình có nghĩa là ta cần ý thức được khái niệm bản thân. Chúng ta cần quan tâm đến hoàn cảnh sống của chúng ta (bị ném vào cuộc sống). Chúng ta cần ý thức về quá trình chúng ta tiếp cận với cuộc sống qua những thỏa hiệp nhượng bộ. Chúng ta cần nhận ra những khả năng tự thiết kế nên chính con người của mình. Ta cần ý thức về những đại lượng xảy ra không thể tránh được, về những mặc cảm và thái độ lo lắng của chúng ta về sự chết. Cũng nhập cuộc và càng mở rộng chính mình ra với những đại lượng nói trên, điều đó có nghĩa là chúng ta đang hành động để xác định được bản thân của mình. Như thế ta cần phải gắn bó với cuộc sống, có trách nhiệm, nhập cuộc, đối chiếu và đương đầu với hiện thực trước mặt.

Theo các nhà hiện sinh học, sức khỏe tâm thần không phải là não trạng khoái cảm hay trạng thái hạnh phúc. Mặc dù các nhà thuyết học hiện sinh chẳng có ý định chống lại những giá trị ấy. Theo họ, sức khỏe tâm thần đến từ khả năng và niềm tin nơi ta sẽ sống tốt đẹp nhất.

12. Sống không thật với chính mình

Những ai không sống thật với chính mình là sống hờ. Nghĩa là họ sống nhưng không trở thành một cái gì đó cao lớn hơn chính họ. Họ đánh đổi sự mở rộng với bản thân để lấy về sự co cụm. Họ đánh đổi sự động năng cuộc đời để đem về trạng thái bị động tù túng. Họ chối bỏ những khả năng tốt đẹp có thể xảy ra để chấp nhận những gì họ nhìn và sờ được. Nếu sống với con người thật của mình là tiến về phía trước thì sống không thật với chính mình là đứng giam chân tại chỗ.

Nhà học thuyết hiện sinh tránh né việc xếp bảng và phân chia. Với họ, mỗi người là một chủ thể rất riêng. Vì chúng ta không ai có một số lượng nguyên liệu thô giống nhau và chất lượng nguyên liệu thô của mỗi người cũng khác nhau về di truyền, văn hóa, gia đình… Và mỗi chúng ta sử dụng tất cả những nguyên liệu thô ấy để kiến tạo nên chính mình qua những lựa chọn sáng suốt hay những lựa chọn không lành mạnh. Vì thế chúng ta có rất nhiều lối sống trung thực với chính mình hay là chọn cách sống không trung thực với chính mình.

Sống theo truyền thống là lối sống tương đối phổ thông không trung thực với con người của mình. Đây là lối sống tránh né tiềm năng tự do của mình, một cuộc sống tuân thủ theo những hệ giá trị tinh thần và vật chất được định sẵn. Nếu ta muốn mình giống như những người khác, chúng ta sẽ không có bất cứ khát khao vươn lên. Và chúng ta cũng chẳng cần phải có bất cứ chọn lựa to lớn nào. Có những người hành xử vì bị chi phối bởi người có quyền hành, bởi sức ép từ hàng xóm và bạn bè, hoặc bởi những phương tiện đại chúng. Nếu ta cứ bận rộn với việc tìm tòi nơi những giá trị đạo đức để có quyết định xử lý, Sartre nói rằng bạn đang ngã xuống và sống với một niềm tin thật đáng ngại.

Một lối sống né tránh, không thực với chính mình là bệnh thần kinh hiện sinh, tuy họ là người có ý thức về khái niệm chính mình nhiều hơn những người sống dựa trên những tư tưởng truyền thống. Họ biết mình là người có lựa chọn và họ rất sợ phải đối diện với chọn lựa đến độ nỗi lo lắng này trở thành quá tải. Họ có thể tê cóng, hoảng hốt, thay đổi nỗi lo lắng và mặc cảm hiện sinh chuyển sang nỗi lo lắng và mặc cảm thần kinh. Họ thường có xu hướng bị lôi cuốn bởi những đối tượng gây sợ, và những nỗi ám ảnh không kiềm chế được. Họ cần có một đích điểm để giải tỏa trạng thái giận dữ. Họ thường lo lắng về một một căn bệnh, hay một vấn đề giả tạo không có thực. Đó là những cố gắng tìm cách đối phó vô tình đã biến thành những khó khăn trong cuộc sống và trở nên một vấn đề. Các nhà tâm lý hiện sinh nói rằng dù chúng ta có thể gạt bỏ tất cả triệu chứng bằng những kỹ thuật khác nhau nhưng chúng ta vẫn phải đối diện với các vấn đề có tính hiện sinh.

Binswanger cho rằng sống không trung thực với chính mình là chọn lựa trói buộc cuộc đời của mình trong một cái hộp hay một khung tẻ nhạt. Chính khung tẻ nhạt này đã chi phối tất cả những giá trị hiện sinh (dasein) của mình. Họ là người cứng nhắc và tê liệt trong cách nhìn, cố hữu với một giá trị, họ có xu hướng ngại ngùng trong việc thể nghiệm tìm tòi. Họ thụ động, chờ đợi và nghe ngóng, không dám tiên phong trong những lĩnh vực của đời sống. Để khỏa lấp những khoảng trống, họ thường lao vào những thói quen thường nhật, trái hẳn với người sống trung thực với chính mình, là những người luôn hăm hở thể nghiệm và khám phá.

13. Phân tích hiện sinh và hội chẩn

Binswanger và các nhà hiện sinh học khác luôn tìm cách khám phá ra thế giới quan của một thân chủ hay thế giới mà họ đã thiết kế ra. Tuy nhiên đây không nhất thiết là những mảng đề tài nặng nề như tôn giáo, triết lý, hoặc về quan điểm cuộc đời. Ông muốn tìm hiểu về cách một thân chủ sống cuộc đời thật trong những phạm trù cụ thể hàng ngày. Cụ thể, ông muốn thân chủ kể cho ông nghe cách họ hiểu về vai trò và giá trị của những vật thể trong thể giới cuộc sống như bàn ghế, chim bồ câu, con cọp trong vườn bách thú, tòa nhà, trọng lực và ánh sáng…

Ngoài ra ông cũng muốn khám phá về thế giới xã hội, vốn là những phạm trù quan hệ cá nhân, cách nhìn và thái độ của thân chủ với cộng đồng và các mảng văn hóa xã hội khác.

Ông còn muốn biết về thế giới nội tâm của thân chủ, bao gồm cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần, qua đó những cảm xúc trung thực nhất nơi tâm thức của thân chủ sẽ chính là con người của họ.

Binswanger chú ý đến khái niệm thời gian mà mỗi thân chủ luôn có trong não thức. Ông muốn biết họ nhìn về quá khứ, hiện tại và tương lai như thế nào? Phải chăng họ là người chỉ nhìn về quá khứ vàng son? Hay họ luôn phấn đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn ở phía trước. Họ nhìn đời như một con đường dài, đầy những mạo hiểm phức tạp? Hay cuộc đời của họ chỉ là một bó đuốc, đang cháy ngay lúc này và sẽ tắt sau khi cháy hết dầu.

Ông tìm hiểu xem cách thân chủ nhìn vào vũ trụ không gian như thế nào? Thế giới của họ là một thế giới mở hay là một thế giới đóng. Thế giới ấy nhỏ hẹp hay mênh mông? Thế giới ấy ấm áp hay lạnh lẽo. Ông muốn biết họ nhìn cuộc sống như một dòng chảy là hành trình của những sự kiện mạo hiểm, sống động. Hay họ sẽ nhìn thấy chúng như một thế giới có trung tâm cố định và bạn xoay vần trong đó. Sau những mô tả này, kết hợp với những đại lượng khác trong môi trường liệu pháp thân thiện sẽ giúp nhà liệu pháp và thân chủ nhận ra những khía cạnh quan trọng của bức tranh vấn đề.

Binswanger nói về những não thức mà chúng ta thường có. Ông cho rằng có nhiều người sống với một não thức đơn và họ sống một mình, rất tự lực và có thể sinh hoạt độc lập rất tôi. Có người sống với não thức đôi, có nghĩa họ sống rất tôi–và–bạn. Nhiều người sống với não thức đa diện, có nghĩa họ tin rằng mình phải là một thành viên của một tổ chức, nhóm, hội, cộng đồng. Có người sống trong não thức khuyết danh khi họ lặng lẽ, kín đáo, chìm lẫn vào cuộc đời một cách lẩn khuất. Theo ông, chúng ta thường trải qua những não thức này trong nhiều thời điểm khác nhau, những bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, thường sẽ có một mô hình não thức quen thuộc nhất ở với chúng ta.

Ngôn ngữ trong phân tích hiện sinh mang tính so sánh ẩn dụ. Cuộc sống thật mênh mông, diệu kỳ, phong phú và sống động, không thể gói gọn vào một mô hình hay một chân dung nào đó. Cuộc đời của mỗi người có nhiều chất liệu không một cuốn tiểu thuyết nào viết hết được. Liệu pháp hiện sinh cho phép một cá nhân diễn đạt chính họ, trình bày và mở lòng họ ra, bằng ngôn ngữ của riêng họ trong một khung thời gian rất riêng.

Các nhà hiện sinh có thể sẽ có hứng thú với những giấc mơ của thân chủ, tuy nhiên họ sẽ không phân tích lý giải và nói cho thân chủ biết về những giấc mơ ấy. Ngược lại, họ sẽ hỏi thân chủ về những giấc mơ, xem thân chủ có những cảm nhận gì về những giấc mơ ấy. Có thể những giấc mơ ấy chẳng có giá trị gì cả, nhưng cũng có lúc đó là cánh cửa mở ra vào thế giới đầy màu sắc của thân chủ.

14. Liệu pháp

Điểm son của liệu pháp hiện sinh là mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ của mình được gọi là lối tiếp cận. Lối tiếp cận hiệu quả là kênh giới thiệu đại diện sự tham gia chân thành giữa hai cá nhân. Trong đó một người mở rộng tâm tư sẽ được người khác mở rộng đón tiếp. Khác với những liệu pháp nặng về tính chuyên môn như trường phái Freudian, hay thiên về kỹ thuật như trong liệu pháp hành vi, các nhà liệu pháp hiện sinh chú trọng đến quá trình liên hệ với thân chủ của mình. Vì thế kỹ năng nhà trị liệu đóng vai một người thân của thân chủ hoặc việc nhà trị liệu coi thân chủ như là người thân của mình là chuyện xảy ra tương đối phổ thông.

Các nhà học thuyết nhân văn học cho rằng thuyết hiện sinh có hướng trị liệu nghiêm túc và có tính hướng dẫn nhiều hơn. Các nhà hiện sinh học thường có xu hướng tiếp cận thật tự nhiên với thân chủ – họ thường lặng lẽ lắng nghe nhiều hơn, đôi lúc trình bày nhận xét của mình, có lúc họ chia sẻ kinh nghiệm. Nhiều lúc nhà trị liệu cho phép mình chia sẻ cả những cảm xúc với họ nữa. Tiếp cận thật tự nhiên cũng có nghĩa là nhận ra sự khác biệt giữa hai phía. Nhà trị liệu có kinh nghiệm qua huấn luyện và làm việc. Thân chủ là người được coi là có vấn đề. Thuyết Hiện sinh chủ trương liệu pháp là một cuộc đối thoại, chứ không phải là một quá trình độc thoại từ phía nhà trị liệu hay từ phía thân chủ.

Tuy thế, mục đích của trị liệu hiện sinh là đem lại khả năng độc lập tự chủ của cá nhân. Giống như trong liệu pháp của Rogers, liệu pháp hiện sinh muốn thân chủ tự tìm ra vấn đề. Ví dụ một em bé tập lái xe đạp và cách duy nhất là để cho em bé tự ngã, tự đứng dậy, tự đạp xe tiếp cho đến khi em khám phá ra chìa khóa của sự cân bằng. Nếu điểm son của Dasein là để trở thành con người chính mình – là tự do và có trách nhiệm với đời sống của chính mình, nhà trị liệu nhất định phải chuẩn bị để cho thân chủ được tự do xử lý một mình.

15. Thảo luận

Điểm tích cực của thuyết Hiện sinh là sự tập trung liên tục vào thế giới mà một cá nhân đang sống. Xét ở góc hiện tượng học, thuyết Hiện sinh lần đầu tiên đã diễn tả cuộc sống như một thế giới cần được sống và trải nghiệm. Xét về mặt quan điểm học thuyết, áp dụng vào thống kê, phân tích và những thí nghiệm khác ta hãy tạm gác qua để nghe xem các nhà hiện sinh thật sự muốn nói gì.

Theo các nhà hiện sinh, lối tiếp cận tự nhiên của họ được áp dụng một cách uyển chuyển vào những khu vực phân tích và liệu pháp, đây là một điểm rất gần với giáo dục. Trường phái Hiện sinh bắt đầu những bước chuẩn bị cho tâm lý công nghiệp và tâm lý trong tổ chức cơ quan.

Tuy nhiên thuyết Hiện sinh không được thu hút tôn trọng từ những phương pháp nghiên cứu. Rất ít các tạp chí tâm lý chịu đăng tải các bài viết Tâm lý hiện sinh và những nghiên cứu về lĩnh vực hiện tượng (chỉ có hai tạp chí đăng bài). Vài tạp chí Giáo dục và y tế cũng đề cập đến lĩnh vực này. Nhiều tạp chí Tâm lý chống đối thuyết Hiện sinh vì được coi là không có sở khoa học. Họ cho rằng học thuyết này không có giả thiết và cũng không có chứng cớ từ thống kê, không có ngiên cứu trên mô hình thể nghiệm, không có đại lượng kích thích và đối tượng bị ảnh hưởng. Ngay cả nhiều trường đại học đã không chấp nhận các luận án của sinh viên có dính líu đền học thuyết Hiện sinh.

16. Những khó khăn

Những khó khăn mà thuyết Hiện sinh gặp phải không hẳn hoàn toàn đến từ lỗi lầm của tâm lý truyền thống vẫn thiên về một xu hướng thịnh hành nhất định. Nhiều người cho rằng thuyết Hiện sinh tuy nổi tiếng, nhưng lại bị hiểu lầm vì đa phần các nhà tâm lý nói tiếng Anh nhưng tác phẩm viết bằng tiếng Đức, và đã không có cơ hội quảng bá.

Có thể vì những tư tưởng mới thường khó được chấp nhận. Hơn nữa những khái niệm thuật ngữ và cách thể hiện mới mẻ trong thuyết Hiện sinh được trích dẫn từ triết lý nên cuối cùng được các nhà triết lý hiểu nhiều hơn là bởi các nhà tâm lý. Vì thế một số tác phẩm viết bằng tiếng Đức và tiếng Pháp, cộng với một số bản dịch sang tiếng Anh rất vụng về, thuyết Hiện sinh cuối cùng chỉ phát triển mạnh ở Châu Âu mà thôi.

Chúng ta cần những nhà viết sách tâm lý tiếng Anh về thuyết Hiện sinh giỏi hơn nữa. Và như thế, ngôn ngữ của những kinh nghiệm bình thường, của những con người bình thường phải được viết bằng ngôn ngữ bình thường. Rolo May và Viktor Frankl đã có những cố gắng trong chiều hướng ấy, tuy nhiên phái Hiện sinh vẫn còn nhiều cố gắng phấn đấu trước mắt.

Hơn nữa các nhà hiện sinh học thường có thói quen tranh giành giữa nội bộ xem ai là người hiểu rõ về Husserl và Heidegger nhất. Nếu như họ biết quy về một mối, tập trung lại, rất có thể thuyết Hiện sinh sẽ có được một cơ hội cất cánh.

Một điều mà nhiều người tỏ vẻ quan ngại là học thuyết Hiện sinh sẽ lôi kéo chúng ta ra khỏi dòng chảy tâm lý chung. Dù tâm lý có hai nhánh lớn: chú trọng vào thực nghiệm và một nhánh khác tập trung vào yếu tố nhân văn học, những nhà áp dụng học thuyết tâm lý khác. Nếu như chối bỏ nhánh tâm lý thực nghiệm, chúng ta đang nói đến chuyện bỏ hẳn đi một nửa ngành Tâm lý.

Sẽ còn nhiều khó khăn cho tâm lý Hiện sinh. C. George Boeree (2006) viết rằng, ông lo lắng cho tâm lý Hiện sinh vì ông cũng là một nhà tâm lý theo nhánh Hiện sinh. Tuy nhiên ông cảm thấy tự hào và tin rằng tâm lý Hiện sinh có những đóng góp rất thiết thực. Nhất là thuyết Hiện sinh có một nền tảng triết lý rất vững, vốn là cái gốc mà nhánh Adlerian, Freudians, và Rogerians đã phát triển, chắt lọc, trình bày để chúng ta có thể hiểu sâu hơn về những hiện tượng đời sống con người.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3