Luận Anh Hùng - Phần II - Chương 06 - phần 1

Phần II: TÀO THÁO

I. Làm năng thần hay gian hùng

Tào Tháo là “gian hùng”.

Tào Tháo là “gian hùng”, phần lớn do bị ép buộc.

Lúc này mới thấy, thời đại Hạng Vũ còn tương đối tự do. Bấy giờ, thể chế chuyên chế trung ương tập quyền đang trong giai đoạn ban đầu và thời gian thử nghiệm cũng không dài, sau khi Tần diệt vong, mọi người cũng không chơi ngón trò này nữa. Quan niệm “dưới gầm trời chỉ có thể có một hoàng đế, bất kể hoàng đế là thần là người, là chó là lợn, đều phải tuyệt đối trung thành, bằng không tức là gian là phỉ”, cũng chưa được hình thành rõ rệt. Cục diện “thiên hạ phân phong, chư hầu cát cứ, ngũ bá nổi dậy, thất hùng cùng hưng, Sở mạnh nam phục, Tần bá tây thùy, thay phiên tử hội ước chư hầu, quyết phen sống mái” vẫn còn mới mẻ trong ký ức mọi người. Các chủ hầu tự do tuyên chiến, giảng hòa, kết minh, thu thuế, hoàn toàn không coi thiên tử ra gì. Văn nhân và võ sĩ, du hiệp cùng lũ thích khách được tự do chu du các nước, lưu động giữa các chư hầu, sớm Tần tối Sở, chọn chủ mà thờ, cũng không hề coi tước vị quan lộc trong tay là gì cả. Thậm chí Điền Tử Phương còn nói với Nguỵ thái tử là Kích rằng: Kẻ sĩ bàn luận mà không được dùng, chủ trương mà không hợp, thì lập tức chạy sang nước khác. Vứt bỏ quốc dân cũng như vứt bỏ chiếc giày cỏ. Tóm lại, khi đó một người chỉ cần có thực lực, có khả năng, có bản lĩnh, thì nhiều ít tùy ý có thể làm những việc mình muốn làm. Dù vận may chưa đến, có thất bại, cũng không có ai đàm tiếu. Vì vậy, tuy nói “thắng làm vua, thua làm giặc”, nhưng Trần Thắng từng tuyên chiến với hoàng đế, giữ nghĩa mà bại trận, cũng không có ai nói Trần Thắng là giặc, là phỉ? Không giống như bọn Tống Giang sau này, dù đã chiêu an, nhưng vẫn không vứt bỏ được cái mác thổ phỉ hay giặc cỏ.

Đây là thời đại sôi động, chiến tranh không ngừng, chiến sự liên miên, thôn tính lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé, và cũng là thời đại anh hùng, thời đại giữa hổ và báo. Đối với người yếu là không công bằng cho lắm, nhưng đối với người mạnh thì có cả một vùng trời tự do rong ruổi. Nên dù nói gì đi nữa, Hạng Vũ vẫn là người có nhiều tự do. Nay đã thất bại, nhưng vẫn không hề mất sĩ diện của người thất bại, vẫn còn nhiều người cúng tế nhớ thương Hạng Vũ. So sánh một chút thì thấy, Tào Tháo là người lỗi thời đen đủi hơn nhiều. Tào Tháo đã thành công (rất thành công), nhưng vẫn bị vẽ thành bộ mặt trắng bệch(1).

(1) Trong kinh kịch hoặc hý khúc Trung Quốc, vai diễn vẽ mặt trắng là vai phản diện, gian ác (BTV).

Số phận đã định, Tào Tháo chỉ có thể làm “người xấu”.

Tào Tháo, tự Mạnh Đức, tên cúng cơm là A Man, người huyện Tiều nước Bái, nay là thị trấn Bạc Châu, An Huy. “Tam quốc chí” của Trần Thọ nói, Tào Tháo là hậu thế của Tào Tham, tướng quốc thời Tây Hán, nói thế là sai. Vì Tào Tháo vốn không phải họ Tào. Tào Tung, cha của Tào Tháo chỉ là con nuôi của Tào Đằng. Tào Tung và Tào Đằng không có quan hệ huyết thống thì dù có chứng minh rõ, Tào Đằng là đời sau của Tào Tham, cũng có liên can gì đến Tào Tháo? Sự thực thì, cha mẹ đẻ của Tào Tung cuối cùng là ai, đến nay vẫn còn là câu đố, ngay cả Trần Thọ cũng chỉ có thể nói “không thể biết ai đã sinh ra họ”. Tào Tháo nói biết cha mẹ đẻ của mình là ai, vẫn chỉ là “lai lịch bất minh”.

Tào Tháo sống trong thời đại không tốt.

Tào Tháo sinh ra và lớn lên ở hai triều Hán Hoàn đế, Linh đế, ra đời vào năm 155 Công nguyên, năm Vĩnh Thọ thứ nhất thời Hoàn đế, năm 174 Công nguyên, năm Hy Bình thứ ba thời Linh đế Tào Tháo ra làm quan; hai triều Hoàn, Linh được coi là thời đại hỗn loạn nhất, đen tối nhất trong lịch sử bốn trăm năm vương triều Hán. “Thời kỳ Hoàn - Linh” là cụm từ chỉ thời kỳ vua tối quan gian này, muốn làm “người tốt” trong thời đại này là quá khó. Không bị hãm hại cũng bị chèn ép, Tào Tháo không chỉ không muốn bị hãm hại, cũng không muốn bị chèn ép, đương nhiên phải làm “người xấu”. Tóm lại, Tào Tháo sinh không gặp thời, lai lịch bất minh, thực quá đen đủi.

Trong thực tế, thời đại của Tào Tháo khác hẳn với thời đại của Hạng Vũ. Giả sử Tào Tháo sinh trưởng gặp thời, cũng chưa hẳn đã làm được gì. Kể từ khi vị hoàng đế lưu manh Lưu Bang thống nhất thiên hạ về mặt tổ chức, cháu của Lưu Bang là Vũ đế Lưu Triệt thống nhất thiên hạ về mặt tư tưởng, thì những kẻ hổ báo có khí chất anh hùng và tinh thần cao quý, cho dù là văn nhân hay võ sĩ, cho dù là có ý tưởng hay hành động đều bị xử lý gần hết. Biện pháp xử lý vẫn là chiếc gậy có thêm củ cà rốt, có điều củ cà rốt có hạt và chiếc gậy sẽ biến thành răng sói dính đầy máu. Thái sử công Tư Mã Thiên chỉ nói đỡ cho Lý Lăng nói mấy câu, mạo phạm hổ uy của Vũ đế liền bị nhục hình đến mức, nam không ra nam, nữ không ra nữ; còn như Đại nông lệnh Nhan Dị căn bản không bàn luận, chỉ là nghe người khác bàn về triều chính, môi dưới cứ mấp máy, trễ xuống một chút, liền bị coi là “phục phỉ” (có bụng phỉ báng), liền bị tử hình; chẳng trách trong thành Tràng An khi đó có năm vạn người, tù nhân có tới mười sáu, mười bảy vạn, chẳng trách khi Lang trung lệnh Thạch Kiến dâng thư tâu việc, chữ “mã” viết thiếu nét, đã phải sợ đến kinh người. Những chuyện này đều xảy ra trong thời kỳ vị vua hùng tài đại lược Hán Vũ đế cầm quyền. Vũ đế luôn được coi là một trong các vị đế vương vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc, chính là “Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tông Tống Tổ(2)”. Vì vậy, Hán Vũ đế luôn được coi là anh hùng. Nhưng tôi lại thấy, nền thống trị dưới bàn tay sắt của Vũ đế, nghiệp tích anh hùng thì có, nhưng không có tinh thần anh hùng.

(2) Tần Hoàng Hán Vũ: tức Tần Thủy Hoàng đế và Hán Vũ đế.

Đường Tông Tống Tổ: tức Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) và Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) (BTV)

Tào Tháo sống trong thời kỳ Hoàn - Linh, tình hình lúc này đã quá tồi tệ. Vương triều Đại Hán cùng với chế độ của mình, trong ngoài đâu đâu cũng đầy xác chết. Trên thực tế, từ lúc Vương Mãng cướp quyền đến sau khi Quang Vũ trung hưng, vương triều Hán đã không thể phục hồi. Ngoại thích nắm quyền, hoạn quan chuyên chính, quân phiệt xưng hùng, gian thần liều mạng nắm quyền, tham quan ra tay vơ vét, trăm họ đành phải ăn nhờ đất Phật. Đạo đức suy đồi, tất cả là một mớ hỗn độn. Lúc đó có những câu dân ca: “Đỗ tú tài, không biết chữ, đỗ hiếu liêm, cha ở riêng”; “thẳng như dây cung, chết bên đường, cong như cái móng, được phong hầu”, rõ ràng thiếu liêm ít sỉ, miệng thật lòng giả đã thành mốt. Chẳng có gì là lạ, vương triều ấy, chế độ ấy không dùng được người quân tử, tất sẽ nuôi được kẻ tiểu nhân, đã không nghe được lời nói thật, mọi người đành phải nói lời giả. Khi nhiều người phải lén lút, run sợ, như rùa rụt cổ, chuột già vào hang, khi ham muốn quyền lực phình lên cực độ, ham muốn vật dục ngang ngược bành trướng thì ti tiện được khích lệ, cao quý bị đả kích, làm gì có khí chất anh hùng, tinh thần cao quý, làm gì còn hổ và báo. Có chăng chỉ là chó và dê. Chó thô bỉ đó là từ con sói ác độc biến thành, còn dê tầm thường chính là con sói khoác da dê, hơn nữa là con sói lông vàng.

Nếu lúc này, đột nhiên xuất hiện một chú hổ hoặc báo, thì sẽ ra sao đây? Mọi người sẽ coi chúng như quái vật, giống con vịt trong truyện cổ tích, nói con thiên nga nhỏ bé kia là con vịt nhỏ xấu xí. Nhưng đó chỉ là lời mấy chú vịt cười nhạo chú vịt con xấu xí, mấy con chó thô tục và mấy con dê tầm thường kia sẽ nhất tề xông lên, tỏ vẻ mặt hoa da phấn cho hổ và báo kia xem.

Vận mệnh Tào Tháo là như vậy.

Vận mệnh của Tào Tháo như đã được quyết định từ trước.

Con người Tào Tháo lúc nhỏ chừng như là “thiếu niên có vấn đề”, nhiều chỗ giống với Lưu Bang, Hạng Vũ thuở nhỏ, có điều Tào Tháo thích đọc sách hơn hai người kia. Sử sách nói, lúc nhỏ Tào Tháo “thích ưng bay chó chạy, phóng đãng vô độ”. Người chú không vừa mắt khi thấy cảnh đó, thường nhắc nhở Tào Tung phải thường xuyên trông nom thằng bé này, Tào Tháo biết chuyện, liền nghĩ quỷ kế để đối phó với ông chú lắm chuyện. Một hôm, Tháo nhìn thấy ông chú từ xa đi tới, liền vờ méo miệng xệch môi. Chú đến hỏi vì sao, đáp đột nhiên trúng gió. Lập tức người chú đến báo với Tào Tung. Lúc Tào Tung gọi Tào Tháo đến xem, đã chẳng thấy có chuyện gì. Nhân đó Tào Tháo nói thêm, làm gì có chuyện con trúng gió! Có thể chú không thích con nên mới nói bừa như vậy! Đã có chuyện “sói đến rồi” làm vật đệm, từ đó về sau người chú có nói gì đi chăng nữa, Tào Tung đều không tin.

Thực tình thì Tào Tung không quan tâm nhiều đến việc dạy dỗ đứa con này. Tào Tháo làm thơ nói: “Ký dĩ tam tỉ giáo, bất văn quá đình ngữ” (Dịch nghĩa: Chưa từng được nghe dạy dỗ về “tam tỉ”, cũng chưa từng được nghe về “quá đình”), “tam tỉ” là nói mẹ thầy Mạnh Tử, đã rời nhà đến ba lần, để con có hoàn cảnh tốt, còn “quá đình” là nói, con Khổng Tử hai lần đi qua sân, đều bị cha gọi lại để giáo dục, lần một bảo con học Thi, lần hai bảo con học Lễ. Xem ra, từ nhỏ Tào Tháo không được cha mẹ dạy bảo, là con nhà không mấy gia giáo. Vì thế, Tào Tháo “chơi bời phóng đãng, không màng sự nghiệp”, không khác mấy với Lưu Bang lúc trẻ “rượu chè trai gái”, “không nghĩ chuyện làm ăn, gia đình”.

Bạn bè của Tào Tháo như Viên Thiệu, Trương Mạc cũng cùng một loại. Họ thường tụ tập ầm ĩ, cũng lắm chuyện ra trò. Một lần có một người kết hôn, Tháo và Thiệu đến xem, rồi bỗng nhiên nghĩ tới chuyện cướp cô dâu. Cả hai đã trốn vào trong vườn, chờ lúc trời tối mới gào to: “Có trộm”, khi người đến dự hôn lễ chạy hết ra ngoài, nhân lúc rối loạn, Tào Tháo liền chạy vào động phòng cướp dâu. Vì quá hốt hoảng, đi đường không khéo, Viên Thiệu rơi vào bụi gai bên đường, không sao thoát ra được. Trong lúc nguy cấp, Tào Tháo sinh kế, liền gào lên: “Trộm ở đây!”. Vì sợ quá Viên Thiệu bật mạnh, cả người thoát khỏi bụi gai, những quỷ kế như vậy, Tào Tháo có rất nhiều, trách gì “Tam quốc chí” từng nói Tháo là “Ít nhạy bén, nhưng tài ứng biến”.

Một đứa trẻ thích chơi những trò ác như vậy, hẳn nhiều người sẽ không thích, họ xem thường Tào Tháo. Nhưng Thái úy Kiều Huyền lại nói Tào Tháo là “tài giỏi nhất đời”, bình định thiên hạ sau này, chính là Tào Tháo. Vì vậy, Tào Tháo tuy ngang bướng nghịch ngợm, không có phép tắc, nhưng không phải con em nhà lưu manh ác độc, con em nhà quyền quý bình thường. Tào Tháo “tài võ tuyệt vời, không ai hại nổi, bác học quần thư, nhiều nhất là binh pháp”, đúng là nhân tài mà loạn thế đang cần. Vì vậy Kiều Huyền rất tin tưởng Tào Tháo, gửi gắm cả vợ con, còn đề nghị Tháo kết giao với Hứa Thiệu, xem Hứa Thiệu nói thế nào.

Hứa Thiệu tự Tử Tương, người Bình Dư, Nhữ Nam (nay là Bình Dư, Hà Nam) là nhà bình luận, nhà giám thưởng nổi tiếng nhất thời đó. Thường cứ vào mùng một hàng tháng, Hứa Thiệu bình phẩm nhân vật đương thời, gọi là “Nguyệt đán bình”, còn gọi là “Nhữ Nam Nguyệt đán bình”. Bất luận là ai, một khi được bình, thì thân giá cao lên gấp bội, người đời lưu truyền, coi đó là lời đẹp. Nên nhớ rằng, thời Lục triều Hán Nguỵ, bình phẩm nhân vật là việc lớn trong xã hội. Bất kỳ ai, muốn bước vào xã hội thượng lưu, buộc phải có sự giám định của nhà phê bình quyền uy, qua đó quyết định thân giá của mình, giống như trong thị trường nghệ thuật được các nhà phê bình quyền uy cho là tốt, mới bán được giá cao. Đương nhiên Tào Tháo cũng hy vọng có được lời bình tốt từ Hứa Thiệu, nhưng phải chăng bình phẩm Tào Tháo rất khó, nên Tào Tháo chỉ nhận được lời bình như mọi người đã biết: “Là năng thần trị thế, là gian hùng thời loạn”. Nghe nói để có được lời bình của Hứa Thiệu, Tào Tháo đã mất nhiều tâm sức, nhưng mặc cho Tào Tháo cầu xin đến mấy, Hứa Thiệu vẫn không chịu nói. Cuối cùng, bị bức đến hết cách, Hứa Thiệu mới nói ra câu đó. Và như vậy, chúng đã hiểu rõ cuộc đời Tào Tháo tận khi đậy nắp quan tài.

Hiển nhiên, Hứa Thiệu cũng đã thấy rõ Tào Tháo là một nhân vật. Còn như là năng thần hay là gian hùng, còn phải xem Tào Tháo ở trị thế hay loạn thế”(3).

(3) Gọi là “năng thần trị thế, gian hùng thời loạn”, có thể giải thích là năng thần trị lý thiên hạ, gian hùng nhiễu loạn thiên hạ, như vậy, gian hay năng còn tùy thuộc vào nguyện vọng chủ quan của Tào Tháo. Ở đây không bàn tới (Tác giả).

Trở thành nhân vật, là tố chất; ở vào thời nào lại là vận khí.

Vận khí Tào Tháo không tốt, Tào Tháo ở vào thời loạn, là gian hùng, e đó là điều định sẵn. Thực tình thì ngay từ đầu, Tào Tháo đã muốn là năng thần. Năm 174 Công nguyên, hai mươi tuổi, Tào Tháo được cử là “hiếu liêm”. Hiếu là hiếu tử, liêm là liêm sỉ, có được xưng hiệu đó là có được bước thứ nhất vào chốn quan trường, giống ngày nay có bằng cấp là có khả năng thi làm quan chức. Ít lâu sau, Tào Tháo được bổ nhiệm làm Bắc bộ úy thành Lạc Dương, phụ trách trị an phía bắc thành Lạc Dương. Là chức quan không to (bổng lộc 400 thạch), quyền không lớn, nhưng trách nhiệm lại rất nặng, rất nhiều phiền hà. Dưới chân thiên tử, quyền quý đông đúc, đố ai dám đụng tới họ! Nhưng công việc trị an trên phần đất kinh đô không thể không duy trì. Nên vừa tới nhiệm sở, Tào Tháo đã thay mới toàn bộ viên chức nơi nha môn, cho làm nhiều chiếc gậy năm mầu, treo ở mỗi bên cửa lớn mười chiếc. “Ai phạm lệnh cấm, kể cả cường hào, đều bị đánh chết”. Sau đó mấy tháng, quả nhiên có người tìm đến xin chết. Đó là chú của hoạn quan Kiển Thạc được Linh đế sủng tín. Ỷ thế có đứa cháu miệng thét ra lửa, hắn không thèm để ý tới lệnh cấm của Tào Tháo, ngang nhiên vi phạm lệnh cấm đi đêm. Tào Tháo rất tỉnh táo, lập tức cho lấy gậy năm màu đánh chết hắn. Đúng là giết một, hàng trăm người phải sợ, “kinh đô thu mình lại yên ổn không ai dám phạm”, tình hình trị an chuyển biến tốt, Tào Tháo làm chấn động cả trong triều ngoài dã.

Chừng từ năm 174 xuống núi, năm 189 khởi binh, trong vòng mười lăm năm, Tào Tháo vẫn còn muốn là năng thần. Tào Tháo từng là Bắc bộ úy Lạc Dương, Tế Nam tướng (thành cổ ở phía đông huyện Lịch Thành, Sơn Đông ngày nay), điển quân Hiệu úy... Trong đó, một lần bị miễn chức, hai lần từ quan, ba lần bị triệu làm Nghị lang. Trong chốn quan trường chìm nổi, Tào Tháo đã hiểu rõ mọi chuyện trong triều và quan viên. Tào Tháo thấy rõ, vương triều Đông Hán đã hết thuốc chữa, thiên hạ đại loạn không thể thay chuyển. Và dù không loạn lạc, thì triều đình và quan trường hủ bại kia cũng không cần có “năng thần trị thế”. Tào Tháo từng dâng thư lên triều đình, nói hết mọi điều tệ hại, nhưng như cát lún xuống không có hồi âm. Là Lạc Dương úy, Tào Tháo hành luật nghiêm minh, đả kích cường hào; là Tế Nam tướng, Tào Tháo trị quan sạch dân, địa phương yên bình. Tất cả những điều đó, vẫn chưa đủ để có thể chỉnh đốn triều cường, thay đổi tình thế, cũng chưa thể có nhiều ảnh hưởng. Mọi cố gắng của Tào Tháo cho vương triều sắp tàn lụi, đều như muối bỏ biển, chẳng nên công cán gì, đối với bọn quyền thần hoành hành bá đạo thì chỉ như châu chấu đá voi, trứng chọi với đá. Sở dĩ Tào Tháo còn chưa bị họa sát thân vì đằng sau còn có Tào Đằng chống đỡ. Lúc này triều đình lại mượn cớ Tào Tháo “thông tỏ cổ học” nên nhiều lần để Tào Tháo nhận chức Nghị lang, nhàn rỗi có chức không quyền, triều đình không trọng dụng(4).

(4) Tào Tháo nổi tiếng “hào hiệp, phóng đãng”, nhưng lại được cắt cử vì “thông tỏ cổ học”, dường như mang ý châm biếm. Đương nhiên học vấn của Tào Tháo không tệ, càng hợp với thời trị. Không dùng sở trường mà dùng sở đoản, kỳ thực là không muốn dùng Tào Tháo (Tác giả).

Một lần nữa, Tào Tháo không thể không nghĩ lại về chọn lựa con đường của đời mình.

Xem ra, không thể là năng thần trị thế, đành phải là gian hùng vậy.

Kỳ thực, là gian hùng sẽ càng “dễ nghiện” hơn là năng thần. Trung mà vô năng là ngu tối, năng mà không trung là gian, đều không là năng thần. Nhưng chỉ là vừa trung vừa năng, thì chưa đủ, còn phải được mọi người thừa nhận. Rất khó để có được điều kiện thứ ba. Vì vậy, nghi ngờ năng lực của người khác là thứ bệnh thông thường của quan trường; nghi ngờ bề tôi không trung là căn bệnh thông thường của đế vương. Vì vậy năng thần có kết cục tốt trong lịch sử là không nhiều. Khi sống không bị giáng chức thì khi chết cũng bị chửi, là năng thần mà khi sống lẫn khi chết đều không bị người đời đàm tiếu, e chỉ có mình Gia Cát Lượng.

Gia Cát Lượng sống rất mệt.