Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 22 - phần 2

Thực tế, Ung Chính đang tìm dịp để chỉnh trị Doãn Tự. Như tháng mười một năm thứ nhất, lúc bàn về tang lễ, Ung Chính nói, không nên quá xa hoa, ý muốn trách Doãn Tự “vờ là hiếu đễ”, lúc tổ chức tang lễ của mẫu phi quá xa xỉ. Việc tang nên đơn giản mới đúng. Nhưng đưa một Thân vương, tổng lý đại thần ra làm vai phản diện, để Doãn Tự mất mặt trước các triều thần, thực tế là đùa giỡn với Doãn Tự, cố ý làm Doãn Tự mất mặt. Nhất là việc vừa mới xảy ra vào hồi tháng chín, càng làm cho Doãn Tự cảm thấy thương tâm và lo ngại. Ung Chính mượn cớ phòng “thay áo” ở thái miếu có mùi dầu mỡ xào nấu để phạt Doãn Tự - chủ quản của bộ Công, quỳ trước thái miếu suốt một đêm. Một việc nhỏ, nhiều lắm là phạt đến trưởng phòng, cớ chi phải phạt đến một vương gia? Rõ ràng là tâm lý nham hiểm và ghen ghét của Ung Chính đã phát tác. Thực dễ thấy, quỳ trước thái miếu, Doãn Tự nhất định đã phải nuốt hết nước mắt vào lòng, bao nỗi chua xót, oan khuất không thể nói ra, bi phẫn đan xen, biết oán trời hay oán người? Đúng, Doãn Tự nghĩ mãi mà không hiểu, là một “hiền vương” được mọi người ủng hộ lại không thể là hoàng đế, ngược lại còn phải hầu hạ một ông chủ lòng dạ ác độc, hẹp hòi?

Đương nhiên, Doãn Tự không thể ngồi chờ chết. Lúc này, chẳng có cách gì để biết Doãn Tự hành động ra sao, giở những trò gì, chỉ biết lúc đó Ung Chính vô cùng bối rối. Về sau, Ung Chính đã giải thích, sở dĩ trẫm không được như phụ hoàng, rời kinh thành ra ngoại ô săn bắn, đều vì Doãn Tự, bọn Doãn Tự “mật kết băng đảng, tích kết tà mưu, gặp việc là sinh sự, bụng dạ khó lường, trẫm muốn phòng tránh, nên mới không ra ngoài”. Một hoàng thượng bị thần hạ làm cho sợ hãi đến như vậy, thì ngày chết chắc không còn xa.

Có thể vì thần kinh Ung Chính quá nhạy cảm. Với lòng nghi kỵ nặng nề thì một làn gió làm ngọn cỏ lay động cũng có thể bị nghi là người khác có dụng ý; một vài sai lầm ngẫu nhiên, cũng được nghi là cố ý, đều do thần kinh quá nhạy cảm, huống hồ ngôi vị hoàng đế của Ung Chính còn có “lai lịch bất minh”! Thực tế, Doãn Tự uy hiếp Ung Chính không nhất định là có âm mưu ám sát hoặc là làm chính biến (đương nhiên cũng không chắc là không có) mà chủ yếu là uy vọng của Doãn Tự quá cao. Tháng mười một năm thứ mười một (năm 1724), Ung Chính từng nói, mỗi khi thẩm vấn Doãn Tự “sắc mặt những người thẩm sát tỏ ra chưa thấy hết sai lầm của Liêm Thân vương”. Tháng tư năm sau lại nói: “Nhìn ý chư vương đại thần, biết Doãn Tự là oan uổng”. Rất nhiều người bất bình thay cho Doãn Tự, cho rằng Ung Chính đả kích không đúng, không thể nói đều là sai lầm của Doãn Tự.

Đương nhiên, trong cuộc đấu tranh giữa Ung Chính và Doãn Tự, Ung Chính luôn bị cô lập. Tấm lòng của chư vương đại thần luôn hướng về Doãn Tự, có điều dám giận nhưng không dám nói. Nhạy cảm như Ung Chính đâu lại không cảm nhận được điều đó? Tháng tư năm thứ mười một, vừa lên ngôi được một năm rưỡi, Ung Chính đã có một đạo thánh chỉ đầy vẻ ấm ức: “Trong các vị đại thần, nếu có một người hoặc minh tấu hoặc mật tấu, nói Doãn Tự hiền hơn trẫm, giỏi đường đối nhân xử thế, có lợi cho xã tắc đất nước, trẫm xin nhường ngôi vị ngay lập tức!”. Rõ ràng, nếu không bị bức quá mức, Ung Chính đã không nói những lời hờn dỗi như vậy. Uy vọng, nhân duyên của Ung Chính còn rất lâu mới bằng với Doãn Tự, đây là sự thực không phải bàn cãi.

Ung Chính chỉ còn cách sử dụng pháp bảo duy nhất có trong tay - đặc quyền chuyên chế. Ngày mùng năm tháng giêng năm thứ tư (năm 1726), Ung Chính có thượng dụ, liệt kê một số tội ác của Doãn Tự, gọi là “Liêm Thân vương Doãn Tự cuồng nghịch đã đủ, nếu trẫm còn che giấu, nhẫn nhịn thì không thể nhìn lên vong linh trên trời của Thánh Tổ Nhân hoàng đế”. Về phần nội dung tội ác cụ thể thì không có gì. Tháng hai, giáng Doãn Tự làm Dân vương, bắt giam cầm. Tháng ba, hạ lênh đổi tên Doãn Tự là A Kỳ Na, nghĩa là chó. Tháng năm, hạ lênh đổi tên Doãn Tự là Tắc Tư Hắc, nghĩa là lợn(2). Đồng thời tuyên bố tội trạng của Doãn Tự, Doãn Đường, Doãn Nga, Doãn Đề trước nội ngoại thần công cùng quân dân Bát kỳ. Doãn Đường được dẫn giải từ tây bắc về Bảo Định, Ung Chính lệnh Trực Lệ tổng đốc Lý Phất “canh giữ”. Lý Phất tiếp đãi Doãn Đường “không bằng loài chó lợn”, Doãn Đường luôn ngất xỉu trong những lúc thời tiết nóng bức. Ngày hai mươi tư tháng tám, Doãn Đường chết ở nơi giam giữ. Mùng một tháng chín, Doãn Tự cũng qua đời. Chỉ cách nhau có sáu ngày, hai anh em đã không còn.

(2) Cũng có người cho rằng có nghĩa khác. Xin tham khảo cuốn “Ung Chính truyện” của Phùng Nhĩ Thái, trang 133 - 144, NXB Nhân dân, năm 1985.

Doãn Tự, Doãn Đường chết không rõ ràng. Thời đó, có người nghi ngờ Lý Phất đã theo ý vua mưu sát Doãn Đường, vì Ung Chính từng muốn Lý Phất “tùy ý hành sự”. Ung Chính trách cứ Lý Phất không nói rõ bệnh tình của Doãn Đường, đã hại chết Doãn Đường. Lý Phất có miệng mà khó nói, đành chịu đen đủi. Có điều, đó chỉ là sơ suất nhỏ. Huống hồ, Ung Chính có cách giải thích của Ung Chính, dù là họ đã bị “giết ngầm” (quỷ đến đòi mạng). Còn như có bị giết ngầm hay không, có quỷ mới biết.

Đối với cuộc đấu tranh giữa Ung Chính và Doãn Tự, chúng ta rất khó nói ai đúng ai sai.

Bình tâm mà xét, Ung Chính và Doãn Tự đều đủ tư cách làm hoàng đế. Họ đều có lý tưởng, có chí hướng, có năng lực. Năng lực của Ung Chính có thể chứng minh bằng chính tích mười ba năm chấp chính của mình. Những chính tích đó nói rõ, Ung Chính là hoàng đế có tài có khả năng, đó là cơ sở để Khang Hy tạo dựng thịnh thế được tiếp tục và sau này con của Ung Chính là Càn Long kéo dài thêm sáu mươi năm nữa. Năng lực của Doãn Tự có thể chứng minh ở chỗ Ung Chính. Sau khi lên ngôi, nhiều lần Ung Chính đã nói: “Tài năng làm việc của Doãn Tự hơn anh em nhiều, trẫm rất quý”, “luận về tài năng và phẩm hạnh, các đại thần không ai sánh kịp”. Không cần nghe Doãn Tự nói, chỉ cần nhìn Doãn Tự ra sức chỉnh trị tệ nạn, đủ thấy Doãn Tự không phải nhân vật nhàn rỗi.

Tiếc là hoàng đế chỉ có một và không thể luân phiên. Vì vậy, quan hệ giữa họ chỉ có thể là bốn chữ: Anh sống tôi chết. Bất kể là ai làm hoàng đế đều sẽ không tín nhiệm đối phương, đối phương cũng sẽ không phục. Nếu Doãn Tự làm hoàng đế, không bao giờ Doãn Tự nể tình, nhẹ tay với Ung Chính! Trong cuộc đấu tranh giành quyền lực, nhất là quyền lực tối cao - đấu tranh quân quyền, xưa nay chưa hề có cái gọi là nhân từ, nể mặt. Năm đó, Lý Thế Dân giết Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát, chẳng phải anh em tương tàn sao? Vì sao không thấy ai đưa chuyện? Rõ ràng, chỉ vì “giết em” mà chê trách Ung Chính là không công bằng.

Nhưng, chúng ta vẫn nên đồng tình với Doãn Tự, vì Doãn Tự quá oan uổng.

Cuối cùng thì Doãn Tự phạm tội ác tày trời gì? Đến đoạn hai đời hoàng đế cha con là Khang Hy và Ung Chính phải đả kích và áp chế? Giết người phóng hỏa? Tham ô nhận hối lộ? Mưu tài hại mệnh? Giết vua đoạt quyền? Đều không phải. Tội ác duy nhất của Doãn Tự là đức tài gồm đủ, được lão vương tán thưởng, quần thần ủng hộ, nhiều a ca quý mến, trở thành người xuất sắc nhất trong các hoàng tử, từ đó Khang Hy mới coi là cái dằm trong thịt, Ung Chính mới coi là cái gai trong mắt. Vì vậy, chẳng ngại gì gọi tội của Doãn Tự là “tội có tài có đức”, hoặc là “tội tài đức xuất chúng”.

Điều không này không có gì là ly kỳ. Cây mọc trong rừng, gió thổi tất sẽ đổ. Tiếc là gió lại đến từ cha, anh, khiến mọi người phải thương tâm và cha, anh lại đều là hoàng đế, điều đó không chỉ làm mọi người phải lạnh gáy mà còn làm mọi người phải kinh hoàng. Thực tế thì vào những năm cuối của Khang Hy hoặc thời kỳ đầu của Ung Chính, Doãn Tự làm người rất khó khăn, đúng cũng không đúng, không đúng cũng không đúng, không rõ phải bắt đầu từ đâu. Như vậy Ung Chính giao cho Doãn Tự xét án, nên chặt một chút hay nên rộng một chút, rất khó khăn. Rộng một chút là bán nguyên tắc, mua lòng người; chặt một chút, làm người khác mang tội hà khắc, cay nghiệt, là có dụng ý khác. Dưới thời Khang Hy cũng vậy. Làm việc hăng hái một chút, bị coi là hiếu thắng phô trương, muốn có hư danh; tiêu cực một chút, bị coi là lòng dạ bất mãn, lười biếng lãn công. Có thể, ngay từ đầu, Doãn Tự phải ra vẻ như là ngốc nghếch, nhưng chắc gì đã được Khang Hy hài lòng. Khang Hy sẽ nói, vì sao trẫm lại nuôi dạy một thằng con ngu xuẩn như vậy!

Thực tế, Ung Chính đã thừa kế nguồn mạch phòng ngừa, nghi kỵ đối với Doãn Tự của Khang Hy. Khang Hy từng nói, Doãn Tự “bè đảng thậm ác, cực kỳ nguy hiểm, trẫm luôn lo sợ”; còn đảng của Doãn Tự bất chấp lời cảnh cáo, vẫn đương đầu bảo vệ, giúp Doãn Tự có được vốn liếng về chính trị, rồi khi có thời cơ sẽ phát động chính biến hoặc tranh đoạt hoàng vị lúc Khang Hy chỉ định tìm người thừa kế. Từ đó, Khang Hy nói, Doãn Nhưng “luôn mất lòng người” còn Doãn Tự “luôn được lòng người”, “người này (Doãn Tự) hiểm ác gấp trăm lần Nhị a ca (Doãn Nhưng)”.

Con người một khi bị nghi kỵ thì thực khó sống. Doãn Tự cảm thấy quá khó hiểu và do không nhẫn nhịn được nữa nên đã nói với Khang Hy: Nhi thần thật không biết phải làm người như thế nào, thà chịu ốm nặng cho xong. Ai ngờ Khang Hy càng thêm bực, coi đây là biểu hiện “đại gian đại tà” của Doãn Tự. Lý do là: Một Bối lặc nhỏ nhoi, cần gì phải giả bệnh! Đương nhiên, vì có suy nghĩ sai lầm, nếu không đã chẳng có những lời tấu “quá mức như vậy” vậy! Sau này, lúc Doãn Tự bị bệnh thương hàn, mạng sống nguy kịch, Khang Hy vẫn tỏ ra lạnh nhạt. Sau khi Doãn Tự bình phục, có thể Khang Hy đã thấy mình không phải, không giống người cha hiền từ, nên đã truyền dụ cho Doãn Tự, hỏi xem thích ăn gì; chỗ trẫm cái gì cũng có, nhưng không biết có hợp với con không, “nên không dám cho người mang đến”. Hoàng phụ tự xưng là “không dám” hoàng nhi đâu dám thừa nhận. Vì vậy Doãn Tự đã đến quỳ dưới Long môn, cầu xin được miễn dùng hai chữ “không dám”. Khang Hy lại không vui, trách Doãn Tự nhỏ nhen, hay nhiều chuyện. Khang Hy nói với các hoàng tử: “Doãn Tự vốn hay đa nghi, hay để ý tới những chuyện không đâu”, lần này lại “sinh chuyện, để mọi người biết, còn ra thể thống gì!”. Kỳ thực Doãn Tự không đa nghi, cũng không sinh chuyện thị phi. Là thần tử, nghe hoàng thượng nói “không dám”, ai mà chẳng giật mình, huống hồ Doãn Tự là người động một tí là bị quở phạt? Đương nhiên Khang Hy nói hai tiếng “không dám”, vị tất đã có ý gì đặc biệt. Nhưng nếu Doãn Tự không từ chối, e sẽ là thất lễ? Từ chối hay không từ chối đều không đúng, điều khúc mắc thực khó, nói thế nào cũng không đúng.

Xem ra, Ung Chính rất giống với Khang Hy về điểm này, chỉ khác là nghi kỵ sâu hơn, ra tay nặng hơn. Đúng vậy, anh em phải khác với cha con. Dận Chân từng nói, với sự “thần thánh” của phụ hoàng, vẫn phải “phòng điều gian ác của Doãn Tự, chưa thể có một ngày được yên”, bản thân có thể không đề phòng chăng? Có điều Ung Chính chưa có uy quyền như Khang Hy. Thêm nữa, bản thân lên ngôi chưa lâu, ngồi chưa ấm chỗ, đành phải cái gì nhịn được thì nhịn, cái gì nhường được thì nhường, cần ưu ái thêm. Nhưng nhẫn nại luôn có giới hạn, một khi bộc phát thì khó bề thu lại. Giống như việc cho vay nặng lãi, tiền cho vay càng nhiều, thời gian càng lâu, thì lợi tức khiến người ta phải giật mình. Ung Chính nhẫn tới mức không thể nhẫn được nữa, mới trừng trị Doãn Tự, trong lòng đã có đầy đủ kế sách hiểm độc. Rất dễ hiểu, khi Ung Chính hạ lệnh đổi tên Doãn Tự, Doãn Đường là A Kỳ Na, Tắc Hư Hắc thì nhất định mặt mũi đã dữ tợn, nghiến răng nghiến lợi, sát khí đằng đằng.

Ung Chính và Doãn Tự không phải là hai địch thủ trời sinh - tận lúc Khang Hy phế thái tử lần đầu, quan hệ giữa họ vẫn còn tốt. Lúc Doãn Tự bị thương hàn, Ung Chính còn quan tâm chăm sóc, nên đã bị Khang Hy trách phạt, coi là “cùng đảng với Doãn Tự”. Rõ ràng, nếu không có việc tranh đoạt ngôi vị, họ đã không trở mặt coi nhau là thù địch. Và một khi đã trở mặt thì không còn gì là tình cốt nhục anh em. Còn lại chỉ là đấu tranh, thù hận một sống một chết. Mọi cuộc đấu tranh nơi cung đình trong lịch sử đều là như vậy. Đương nhiên Ung Chính và Doãn Tự cũng không phải ngoại lệ.

Anh em là vậy, quân thần cũng thế! Từng có một sủng thần đã phải là quỷ dữ dưới đao của Ung Chính, trước khi Doãn Tự bị tiêu diệt. Sủng thần ấy là Phủ Viễn đại tướng quân, tổng đốc Xuyên Thẩm, Niên Canh Nghiêu.