Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 25 - phần 1

V. Hoàng đế như vậy

Ung Chính là hoàng đế như thế nào? Hoàng đế độc tài.

Ung Chính bài trừ người khác ý, đánh vào băng đảng, với mục đích rõ ràng, Ung Chính muốn cả đế quốc chịu sự thống trị tuyệt đối của riêng mình.

Điều đó rất khó, nhưng Ung Chính đã làm được.

Biện pháp của Ung Chính là xây dựng và hoàn thiện chế độ mật chiết. Mật chiết, nói trắng ra là bí mật thông tin riêng giữa thần liêu và hoàng đế, bằng cách trao đổi một số chiếc hộp bằng da chuyên dùng được chế tạo đặc biệt. Chiếc hộp có hai chìa khóa, một giao cho người tấu sớ, một trong tay hoàng thượng, người khác không được và cũng không dám mở hộp, tin tức hoàn toàn bí mật, nên gọi là “mật chiết”.

Xây dựng chế độ mật chiết là một hạng mục cải cách quan trọng của chế độ chính trị truyền thống. Quân thần vốn không có điều gì riêng tư. Chữ nghĩa đi lại giữa quân thần chỉ có “công văn”, không có thư riêng. Thông thường bên phía các quan có hai loại văn thư (công văn). Một loại là “đề bản”, chuyên bàn việc công, có đóng dấu; một loại là “tấu bản”, bàn việc riêng, không cần đóng dấu. Hai loại văn thư này đều do thông chính ty trao chuyển. Quan viên liên quan được đọc trước khi hoàng đế ngự lãm, coi như là thư công khai, không có gì bí mật. Lúc tấu xin tu sửa Tuấn Nhĩ Hải, Dương Danh Thời dùng loại đề bản - loại công khai. Vì vậy, Ung Chính cho rằng Dương Danh Thời cố ý tuyên bố công khai việc đó, để người khác (bao gồm cả hoàng đế) khỏi cướp mất công sức của mình. Đề bản và tấu bản có thể công khai, những giữa thần liêu và hoàng đế có một số điều cơ mật cần phải giấu, không nói ra được thì chẳng có cách gì để phối hợp. Hơn nữa, hình thức bàn việc công thế này cũng không phù hợp với suy nghĩ của Ung Chính là kết giao bằng hữu đơn độc với các thần liêu. Vì vậy, Ung Chính mới sử dụng loại mật chiết được bắt đầu từ thời Thuận Trị, Khang Hy nhưng chưa được biến thành công cụ chính trị vận dụng phổ biến, hình thành cái gọi là “chế độ mật chiết” và “chính trị mật chiết”.

Chế độ mật chiết thực dụng hơn chế độ công văn. Ngoài việc giữ được bí mật, nó còn tiện lợi và nhanh chóng hơn nhiều. Đề bản rất phiền hà. Nó yêu cầu phải viết theo thể chữ thời Tống, cần có hai bản chính và phụ, phải được nội các thẩm định trước, sau khi hoàng thượng xem xong phải viết thành hai thứ chữ Mãn, Hán. Mật chiết không cần, nó không câu nệ hình thức, có thể viết một cách tự do, viết xong không cần qua bất kỳ khâu trung gian nào khác, trực tiếp đưa đến tay hoàng thượng. Hoàng đế chỉ việc bóc ra xem, rồi phê, từ đầu đến cuối, không mất nhiều thời gian, không nhỡ việc.

Chính trị mật chiết còn cao minh hơn chính trị đặc vụ. Đặc vụ là bộ phận tổ chức quan trọng trong chế độ chính trị thời Minh. Để hoàng quyền được mạnh hơn, đế vương thời Minh đã làm hai việc: Một là, bỏ chức tể tướng, lấy các thần thay thế, tức là không cần thủ tướng chính phủ, chỉ cần thư ký và thư ký trưởng, còn nguyên thủ quốc gia và đứng đầu chính phủ đều do hoàng đế kiêm nhiệm. Nhà Thanh đã kế thừa chế độ này. Hai là, thiết lập cơ quan đặc vụ. Cụ thể là Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm y vệ - nơi mà thần dân thời Minh khiếp sợ, gọi chung là “Xưởng Vệ”. Từ đầu thời Minh đã có Cẩm y vệ, là cơ quan đặc vụ chuyên nghiệp do hoàng đế và sủng thần quản lý. Năm Vĩnh Lạc thứ mười tám, (năm 1420), lập Đông xưởng, nhiệm vụ như Cẩm y vệ, do thái giám quản lý, có quan hệ gần gũi với hoàng đế. Vào những năm Thành Hóa thời Minh Hiến Tông, có hai thái giám tranh giành Đông xưởng nên mới lập thêm Tây xưởng. Ngoài ra, vào những năm Chính Đức, vì sủng tín thái giám Lưu Cẩn, Minh Võ Tông lập thêm cho hắn Nội hành xưởng (sau khi Lưu Cẩn bị giết thì phế bỏ). Vì có rất nhiều cơ quan đặc vụ, nên nền chính trị thời Minh còn được gọi là nền chính trị đặc vụ.

Nền chính trị đặc vụ thời Minh cực kỳ đáng sợ. Một câu chuyện được lưu truyền rộng rãi nói: Có một hôm, hai chàng trai A, B ngồi uống rượu trong quán. Nói tới thời sự, A nói Xưởng vệ xem xét minh bạch, B lại mắng Xưởng vệ hoành hành bá đạo. A khuyên B đừng nói vậy, B nói: Sợ gì, chúng không thể lột da tao? Hôm sau, A ra phố, bị một chàng trai lạ mặt ngăn lại, nói có việc cần bàn, mời A uống rượu. A được đưa vào quán rượu hôm qua ngồi với B. Vừa tới đã nhìn thấy một tấm da treo trên tường, là da của B. Kẻ lạ mặt cười nhạo, nói, nhìn thấy chưa? Ai bảo không dám lột da của hắn! A sợ đến vãi linh hồn, nghĩ thầm, may sao hôm qua mình không nói xấu Xưởng vệ.

Nền chính trị đặc vụ thời Minh đáng sợ như vậy, nên rất mất lòng dân và cũng chẳng hay ho gì. Có vẻ như Chu Nguyên Chương và Chu Lệ không mấy tin tưởng số quan viên dưới quyền. Lo ngại như vậy là có lý. Thiên tử cao cao tận cửu trùng, sống trong cung khuyết thâm nghiêm, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Chính lệnh ban bố, dân tình đề đạt, quản lý đất nước, bảo vệ chính quyền đều dựa vào quan liêu. Đây là lực lượng mà bất kỳ vị đế cương nào luôn phải nhờ cậy và luôn phải đề phòng. Vì vậy, ngoài có quan giám sát công khai (như Ngự sử đài, Đô sát viện) còn phải có thêm cơ quan đặc vụ bí mật. Nhưng đặc vụ lại do con người tiến hành. Nhưng quan còn chưa tin được, thì đặc vụ có đáng tin không? Kết quả, vì không được tín nhiệm, nên quan sinh lòng oán hận, đặc vụ vì quyền thế khá lớn đâm ra làm bừa. Một bên không tận tâm, một bên làm điều xấu, vương triều Minh bị giày vò cho đến hết.

Nền chính trị mật chiết hay ho hơn nhiều. Tuy vẫn còn hàm ý không thật yên tâm với các quan viên dưới quyền, nhưng biểu hiện vẫn là tín nhiệm cao độ ở các quan. Tức là những người được hoàng đế tin tưởng mới có quyền mật tấu. Ở thời Ung Chính, người có quyền mật tấu có địa vị cao hơn nhiều so với thời Khang Hy (cao hơn chừng mười lần), quan viên từ cấp tỉnh phó trở lên đều có thể truyền chiết mật tấu, nhưng vẫn là một loại đặc quyền. Quan lớn ngoài biên cương, một khi bị thất sủng thì mất luôn đặc quyền này. Một số quan viên cấp thấp cũng có thể có được đặc quyền này. Đặc quyền luôn khiến mọi người hâm mộ, vì có nhiều cơ hội được trực tiếp nói chuyện với hoàng đế. Nhất là các quan viên cấp thấp và ở xa cung đình, cả đời chắc gì đã được nói vài câu với hoàng đế. Lúc này đã có “đường dây nóng trực tiếp”, có gì nói nấy, muốn tố cáo ai thì tố cáo, cấp trên cũng không quản được, lại không sợ bị lộ bí mật. Không còn gì vui vẻ, thú vị bằng. Tự nhiên người ta sẽ tích cực vượt tấu viết mật chiết, cam tâm tình nguyện làm tai mắt cho hoàng đế.

Hoàng đế được rất nhiều cái lợi, vừa xóa bỏ được nền chính trị đặc vụ mà ai cũng căm ghét, bớt được một khoản chi tiêu lớn, còn được lòng dân, không phải phòng ngừa việc lạm dụng đặc quyền. Ngoài việc có sớ tấu bàn chuyện, các thần liêu lớn bé không có quyền lực gì, không ở trong tổ chức nào, không biến thành một thứ nọc độc lâu dài của đất nước như Xưởng vệ dưới thời Minh. Nhưng tai mắt của đế quốc, không vì triệt tiêu mất cơ quan đặc vụ mà ít đi, mà ngược lại ngày càng nhiều, càng rộng. Vì, các quan viên từ cấp phó tỉnh trở lên đã trở thành tai mắt của hoàng đế. Loại tai mắt này có ở khắp cả nước, đâu đâu cũng có, trở thành một mạng lưới tình báo, bao quát tất cả và cực kỳ nhanh nhạy. Loại tai mắt này không ai biết ai, nhưng lại cùng nhau giám sát tất cả, chỉ có hoàng đế ngồi ở trên cao, mắt nhìn ra bốn phương, tai nghe từ tám hướng, không ra khỏi cung mà biết hết mọi chuyện trong thiên hạ. Thế là hoàng đế trở thành trung khu thần kinh của đế quốc, trở thành đấng toàn năng duy nhất trong cả nước, biết được tất cả. Các quan viên có quyền mật chiết được phân bố khắp các bộ, các tỉnh trong cả nước, trở thành đầu mút dây thần kinh của Ung Chính, trở thành lá bài trong tay Ung Chính. Hoàng đế có thể dùng lá bài đó để vận trù trong trướng, để các quan cạnh tranh được ân sủng, bản thân như ngư ông ngồi hưởng lợi. Tóm lại, chính vì đã xây dựng được chế độ mật chiết - “hệ thống kinh ngạc” mà trái tim và tay chân của đế quốc mới được liên thông, hoàng đế mới trở thành “nguyên thủ” thực sự của đất nước.

Nền chính trị mật chiết của Ung Chính đáng để các nhà chuyên môn tham khảo, nghiên cứu.

Từ lúc Tần Thủy Hoàng xây dựng nên thể chế chuyên chế trung ương tập quyền và thống trị, quản lý như thế nào một đế quốc thống nhất, đất đai vô cùng rộng lớn, nhân khẩu vô cùng đông đúc luôn là một vấn đề rất khó hiểu. Cách làm của các vương triều trước Minh, Thanh là trị nước thông qua hình thái ý thức và luân lý đạo đức. Đó cũng là nguyên nhân để Hán Vũ đế độc tôn Nho thuật và Tùy, Đường xây dựng nên chế độ khoa cử. Theo đường lối chính trị này, các văn quan lầu thông kinh điển Nho gia, tuyệt đối trung thành với hoàng thất sẽ là người quản lý chủ yếu của đế quốc. Một đế quốc rộng lớn trong thời đại nông nghiệp, công việc cũng không phức tạp, chỉ là đóng thuế đúng hạn, đảm bảo an ninh trong các địa phương. Ngoài ra còn hai việc không có tính chất quy luật là chế ngự kẻ địch từ bên ngoài, và cứu tế nạn dân. Nếu như mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, quan lại thanh liêm, dân phong thuần phác thì quan lại địa phương luôn luôn thoải mái. Vì vậy trong thời bình, quan lại địa phương rất nhàn nhã, có thể ngâm thơ vịnh nguyệt, thậm chí là viết sách lập thuyết, công việc không hề bận rộn. Nhưng, thời “thái bình thịnh trị” trong lý tưởng lại xây dựng trên một cơ sở không được vững bền. Nếu lại thiên tai nước lũ, mùa màng thất thu, quan lại tham ô, dân tình sa sút thì sẽ thế nào? Cái gọi là hình thái ý thức, luân lý đạo đức còn có tác dụng gì? Dù Khổng Tử còn sống cũng khó mà thuần hóa phong tục.

Và nếu tất cả mọi người đều là Hải Thụy, cũng chưa hẳn đã hết vấn đề. Vấn đề là: Mọi người đều là Hải Thụy thì còn cần hoàng đế để làm gì? Chẳng nhẽ “nền cộng hòa vua bù nhìn” thực sự không được? Không hề có vị hoàng đế nào lại muốn mình trở thành “vua bù nhìn”. Các vị vua thực sự trong vương triều phong kiến thời kỳ đầu, không ai muốn bản thân và con cháu của mình chỉ là “nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa”, đúng là “chấp chính do ninh thị, cúng tế do quả nhân” (quốc gia do quyền thần quản lý, hoàng đế chỉ lo việc lễ nghi). Tâm lý không thể nói đó hoàn toàn là ích kỷ. Vì mọi người đều là Hải Thụy, hoàng đế sẽ yên tâm. Nhưng nếu mọi người đều là Nghiêm Tung, liệu hoàng đế có yên tâm được không? Khi đó, vấn đề hoàng đế phải suy nghĩ là liệu đầu mình có còn ở trên cổ không.

Thực tế, chỉ dựa vào đạo đức, lễ nghĩa để trị quốc là hoàn toàn không thể (trước đây đã nói nhiều về điều này), vì vậy mới có nền chính trị đặc vụ ở thời Minh. Ung Chính đã tổng kết nhiều bài học kinh nghiệm qua các thời đại và cho rằng, đức trị và lễ trị tuy không thể dựa vào (nhưng cũng không thể vứt bỏ), nhưng nền chính trị đặc vụ còn tệ hại hơn nhiều. Biện pháp duy nhất là thi hành “nhân trị” (nhân là người). Có điều “nhân trị” có hàm nghĩa đặc biệt của nó, tức là: Ngoài hoàng đế, không một ai có thể là chủ thể của nền thống trị. Vì vậy, nên nói một cách chính xác là “đế trị” - sự thống trị của một mình hoàng đế.

Trước Ung Chính, hình thức chủ yếu của nền chính trị Trung Quốc là đức trị và lễ trị. Nhân trị là hiện tượng đặc biệt của một thời kỳ nào đó, và chủ thể không nhất thiết phải là hoàng đế (như Tào Tháo là thừa tướng, Võ Tắc Thiên là hoàng hậu và thái hậu) và cũng không có một chế độ tương ứng nào. Ngược lại, không ít hoàng đế chẳng có cách gì để thi hành trị quyền (như tuổi quá nhỏ) hoặc chủ động vứt bỏ trị quyền (như Vạn Lịch thời Minh) và kết quả, không có vương triều nào được “yên ổn lâu dài”, không thoát khỏi cảnh thay triều đổi đại. Rõ ràng, con đường thoát duy nhất là, xác lập “nền chính trị cá nhân” của hoàng đế, khiến hoàng đế trở thành đại biểu duy nhất cho ý chí đất nước. Ý nghĩa của chế độ mật chiết là đây.

Cho nên, chế độ mật chiết không chỉ giúp hoàng đế thu thập tình báo, giám sát quan viên, mà mật chiết còn là thủ đoạn quan trọng trong hiệp thương chính trị và quyết sách bí mật. Rất nhiều đường lối cải cách quan trọng và những quyết sách lớn lao của Ung Chính, như phân bổ đinh trang theo đơn vị ruộng đất, thay chế độ thổ quan bằng chế độ bổ nhiệm, và khơi thông kênh đào đều được hình thành thông qua mật chiết trưng cầu ý kiến rộng rãi, rồi suy nghĩ bàn bạc và quyết định, sau đó triều đình chính thức hạ chỉ lệnh để cả nước thi hành. Nhưng vì sao hiệp thương chính trị và trưng cầu ý kiến phải thông qua mật chiết mà không bằng con đường công khai bàn bạc trong hội nghị ngự tiền? Hoàng đế Ung Chính đã suy nghĩ kỹ và thấu đáo về vấn đề này. Thứ nhất, đến dự hội nghị chỉ là quan viên bộ môn trung ương, nên không nghe được ý kiến của các quan địa phương. Thứ hai, người phát ngôn nếu không phỏng đoán chỉ ý của hoàng thượng, thì cũng nghe theo thủ tục, tể thần, bảo sao làm vậy, không thể nghe được những điều muốn nói. Thứ ba, nếu dẫn đến tranh luận, sẽ tổn thương hòa khí, môn hộ, băng đảng sẽ tranh nhau, bất lợi cho sự đoàn kết. Thứ tư, đưa những điều suy nghĩ chưa thấu đáo công khai với quần chúng, các bên sẽ suy đoán, thậm chí sẽ dẫn đến đảo lộn, động loạn, bất lợi cho việc ổn định cục thế.

Thăm dò qua mật chiết, kết quả hay hơn nhiều: Thứ nhất, nghe được ý kiến trung ương, nghe được ý kiến địa phương. Thứ hai, vì là mật chiết nên người bên cạnh không biết, người phát biểu ý kiến sẽ nói hết những điều muốn nói. Mọi suy nghĩ, mọi khổ đau, những điều muốn giấu, không thể biểu lộ công khai, giờ đây đều có thể kể hết, tường tận, khiến chủ nhân thấu hiểu được mọi vấn đề. Hơn nữa, vì dám nói thật, không cần phải văn chương ra vẻ, mà tiếp xúc thẳng với thực chất vấn đề. Thứ ba, vì nội dung mật chiết được bảo vệ nghiêm ngặt, không hề bị tiết lộ, không sợ các quan viên nắm được và hình thành nhiều dư luận khiến chủ nhân phải suy nghĩ. Thứ tư, thảo luận mật chiết không mang tính chính thức, một khi phát hiện có gì chưa thỏa đáng, có thể thu hồi ngay, không để xảy ra bất kỳ một ảnh hưởng xấu nào. Có thể nói, Ung Chính làm vậy là rất có lý, rất cao minh.

Ung Chính lợi dụng mật chiết, không chỉ tránh được nhiều quyết sách sai sót, ít có những “công trình phải nát óc”, mà còn có thể nắm được nhiều tình huống. Mật chiết không phải văn thư chính thức, không cần phải nhấn mạnh một điểm nào, có thể nói về mọi vấn đề. Thực tế, Ung Chính cũng yêu cầu như vậy. Ung Chính từng nói với các quan viên có quyền mật tấu, muốn họ cho biết nhiều tình hình hơn, như những điều tốt, chưa tốt trong chính sự địa phương, quan lại địa phương ai lười ai chăm, cấp trên trực tiếp ai công ai tư, quan viên cấp dưới ai ưu ai khuyết, kỷ luật trong quân doanh nghiêm minh không, khí hậu có thuận hòa không, sinh kế của trăm họ thế nào, phong tục thuần phác chăng, thậm chí giá gạo, giá rau, án oan, án lạ, “đều có nghe người nói lại”, “không cần chờ lúc mọi việc được rõ ràng”, chỉ cần tìm được những điều có liên quan. Vì mật chiết chỉ là phản ánh tình hình, không phải căn cứ để lập án, cuối cùng vẫn là sự phán đoán của Ung Chính, nên có nói sai cũng chẳng sao.

Đây chính là điểm hơn người, điểm cao minh của Ung Chính. Mật chiết vốn là chế độ rất nguy hiểm. Mật chiết dễ dàng liên quan đến cáo mật, thậm chí biến thành một phương thức cáo mật, nếu làm không khéo dễ làm cho chủ nhân bị mắc lừa. Cho nên, Khang Hy đã nói: “Để cho người mật tấu không dễ, gặp phải người sơ lược là bị lừa”. Tạ Tế Thế cũng nói: “Tiểu nhân thường lấy cáo mật để hãm hại người quân tử. Không biết tên người tố cáo, bị cáo không thể phân giải, trên dưới quân thần nghi ngờ lẫn nhau”. Nhưng Ung Chính đã biến thuốc độc thành thuốc tốt, chơi với lửa mà không bị lửa thiêu. Phương pháp rất đơn giản, phải “nghe nhiều”. Tức là, phải mở rộng phạm vi quyền được mật tấu, lấy ý kiến khắp nơi, để không bị vào cảnh bị kẻ nào đó nói ngang nói ngược, để có thể có những phán đoán chính xác. Ung Chính cũng cho phép bị cáo được biện giải, nhưng không cho biết tên nguyên cáo. Như vậy, một khi là thực, người trình báo có thể được bảo vệ; chẳng may tố sai, bị cáo có thể rửa sạch nỗi oan. Cho nên, Võ Tắc Thiên lập chế độ cáo mật, tạo nên không ít án oan, giả, sai; Ung Chính lập chế độ mật chiết, đã bảo vệ được không ít người tốt. Vì một viên quan nào đó bị cấp trên hạch tội, Ung Chính có thể thông qua đường dây khác để hiểu hết thực tình, đúng là “quan lớn tuy muốn ép cho chết, còn hoàng thượng lại có thể coi là nhỏ”. Chẳng trách Chương Học Thành cho là “thần thanh liêm chính trực” được sinh trong thời Ung Chính, đó là điều vạn hạnh và “dù có cảm kích sát thân, cũng chưa đủ để báo đền”.

Đúng vậy, đối với không ít người, được gặp Ung Chính là được gặp một hoàng đế tốt.