Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 26 - phần 2

Trong lúc cả nước đang truy hoàn khoản thâm nợ, trừng trị bọn quan tham, Ung Chính đã nghĩ tới vấn đề có tính cơ bản nhất: Làm gì để chế độ không còn quan tham ô, bảo đảm để các quan đều thanh liêm?

Đây là vấn đề rất khó, rất sâu. Chúng ta đều biết, chống hủ bại, hô hào thanh liêm có quan hệ với nhau. Hơn nữa, hô hào thanh liêm quan trọng hơn chống hủ bại. không có chế độ đảm bảo để quan lại luôn thanh liêm thì hủ bại khác gì mầm cỏ cắt không sạch, cứ từng búi từng búi đâm chồi nảy lộc, đúng là “lửa đốt không hết, gió xuân về lại sinh sôi”. Thế là, Ung Chính quyết định cải cách hai hạng mục quan trọng trong chế độ. Tức là tiền hao tổn qũy công và lương cao để dưỡng liêm.

Tiền hao tổn, ở phần “thường lệ” chương trước, chúng ta đã nói tới, tức là hao tổn về đèn dầu về thóc gạo… là phần thứ phụ, ngoài phần thuế bình thường. Đây là loại tham ô nửa công khai, nửa hợp pháp. Tệ nạn này rất nhiều, nhưng không thể trừ bỏ, ngay như hoàng đế Khang Hy cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua. Nhưng Ung Chính không hề hồ đồ, quyết tâm cải cách đến cùng. Ung Chính quy công số tiền hao tổn. Nói cụ thể hơn, đưa số tiền hao tổn mà trước đây các quan châu, phủ tự thu tự chi, nộp hết vào kho tỉnh, sau đó, tỉnh phát trở lại cho châu huyện. Nhìn bề ngoài thấy, số tiền hao tổn vẫn cứ thu, châu huyện vẫn nhận được tiền, chỉ là phải thêm một bước. Cải cách như vậy có ý nghĩa gì?

Ung Chính thấy có nhiều ý nghĩa. Trước hết, tiền hao tổn quy công, giống như “phí cải thuế” ngày nay, tiền hao phí đã có tên, có mức độ. Trước đây, tiền hao phí danh không chính ngôn không thuận, lại nhất thiết phải thu. Kết quả thu nhiều thu ít lung tung. Đất nước bất lợi, không thêm được xu nào, lại thêm gánh nặng cho trăm họ, cả dân cả nước đều bất lợi. Nay tiền hao tổn đã quy công, đất nước được quyền đưa ra mức thu (chủ yếu quy định tỉ lệ mức thu), quan châu huyện có thu nhiều cũng vô ích (vì chỉ được tỉnh phát cho một số lượng theo quy định) và việc loạn thu đã chấm dứt. Như vậy, không thêm gánh nặng cho dân chúng, nhà nước cũng có lợi, dân và nước đều có lợi.

Thứ nữa, làm cho quan hệ giữa quan viên các cấp trở nên đúng mực hơn. Trước kia, quan châu huyện trưng thu tiền hao tổn và cũng do quan châu huyện chi phối khoản thuế phụ này. Cấp trên của họ không có quyền thu, cũng không được quyền chi phối. Đương nhiên, các quan phủ huyện thu xong phần thuế phụ, cũng phân cho quan trên, kết quả, cấp trên là người sống nhờ vào quan châu huyện. Như vậy, sẽ dẫn đến kết quả nghiêm trọng “quan châu huyện có cớ để tham lam bừa bãi, cấp trên biết nhưng không dám tra xét”. Cũng tức là, quan châu huyện tham ô ngày càng điên cuồng, việc giám sát của cấp trên lại ngày một ít đi. Vì sao? Vì đã nhận của người ta, nên há miệng mắc quai!

Sau khi tiền hao phí quy công, tình hình lại khác. Châu huyện nộp tiền hao phí nên coi như là hoàn thành nhiệm vụ; quan trên phát tiền hao phí xuống, coi như phát tiền trợ cấp. Đối với cả hai bên đây không phải là tiền “hoa hồng”. Đã không phải hoa hồng, nên cũng không có tình người, vậy muốn làm gì thì tùy. Châu huyện không dám mượn cớ hiếu kính cấp trên để bóc lột nhiều hơn, thượng cấp cũng mạnh dạn quản lý cấp dưới. Vì vậy, tiền hao tổn quy công tuy có phiền hà một chút, nhưng không phải là thêm việc. Đúng như Ung Chính đã nói: “Gọi là châu huyện đưa tiền để nuôi dưỡng cấp trên, không bằng nói cấp trên đưa tiền để nuôi dưỡng cấp dưới”, thay đổi một chút mà kết quả khác xa nhau.

Vì vậy, Ung Chính có phần coi trọng biện pháp này - lúc vừa tiến hành hao tổn quy công, một số châu huyện cho rằng, thế nào cũng phải trả lại một phần nên đã bớt lại một ít, tránh phiền hà. Nhưng Ung Chính đã không phê chuẩn. Ung Chính cho rằng, cứ theo lệ đó, hậu họa sẽ khó lường. Nếu cho phép châu huyện tự do giữ lại thì làm gì có giới hạn. “Tiền thu ngoại ngạch sẽ tăng thêm nhiều, khéo léo bớt xén, tiền thu sẽ tăng hơn nhiều so với thuế được thu, dân tình sẽ hết sức khổ sở”. Cấp trên vì đã thu đủ con số cần thu, nên cũng không hỏi han gì nữa, kết quả là khó nói sẽ không dẫn tới sự hủ bại mới. Vì vậy, tiền hao tổn cần phải nộp đủ lên trên; đốc phủ cũng phải phát xuống cho đủ số. Dù là phiền hà một chút cũng phải bịt cho được lỗ thủng, phải phòng được họa.

Ung Chính quy định, số tiền hao tổn quy công được dùng vào ba việc: Bù vào khoản thâm nợ, dùng vào việc công, thành “dưỡng liêm ngân”. Đây là cách thức phân phối tiền hao tổn quy công, và cũng là cách thức phân phối để chống hủ bại, hô hào thanh liêm. Ung Chính thấy mình có phần chặt chẽ và khắc nghiệt, nhưng chặt chẽ khắt khe là để đấu tranh giành quyền lực, là để tăng thêm lòng hận thù đối với những kẻ ác độc. Còn đối với những người bình thường, Ung Chính luôn thấu tình đạt lý. Ung Chính không hề muốn các quan phải đói bụng để làm việc công, ngược lại ông mong họ có được cuộc sống khá giả. Ung Chính cho rằng, quan viên lớn bé được “cần gì lấy nấy mà không sợ mất tiếng liêm, muốn gì thì dùng nấy, không sợ mang tiếng là lạm dụng”, vừa không thể bóc lột con dân trăm họ, vừa không thể làm ra vẻ thanh bần để cầu danh. Nhưng, bổng lộc không thể cao hơn, tham ô không được phép, vậy các quan lấy gì để có một cuộc sống khá giả? Lại phải nhờ vào “dưỡng liêm ngân”. Cho nên, không thể không thu tiền hao tổn, không thể không để các quan dùng, nhưng cần có quy chế. Cần phải thích hợp và hợp lý. Các tiêu chuẩn đó là, quan chức cao hay thấp, công việc nhiều hay ít và thuế thu được bao nhiêu. Từ ba tiêu chuẩn đó định ra số tiền dưỡng liêm và thu nhiều quá là tham ô.

Số tiền dưỡng liêm là tương đối khả quan. Như tiền lương của tổng đốc là một trăm tám mươi lạng bạc trắng, và tiền dưỡng liêm của tổng đốc Phúc Kiến (tổng đốc Chiết Mân) là một vạn tám trăm lạng bạc trắng, gấp một trăm lần. Tiền lương của một quan huyện là bốn mươi lăm lạng, còn tiền dưỡng liêm ít cũng có bốn trăm lạng và nhiều là hai ngàn lạng, một tỉ lệ không nhỏ. Ý tứ Ung Chính rất rõ ràng, thu nhập hợp pháp của các vị đã đủ dùng, kẻ nào còn tham ô, hẳn là muốn tìm đến cái chết.

Tiền dưỡng liêm còn có một ý nghĩa khác, là đã công khai hóa các khoản thu nhập của quan viên. Trước đây, mọi thu nhập của quan viên: Thu tiền hao tổn, thu lễ vật, thu thường lệ đều là những “thao tác mờ ám”. Ai tham ai liêm không rõ ràng. Bây giờ thì đã rõ. Sau này, thu nhập và tiền dưỡng liêm của ai đó có khác biệt quá lớn, đã có xét tội “nguồn gốc bất minh của số tài sản lớn”. Vì vậy, cùng lúc với việc xúc tiến chế độ tiền dưỡng liêm, Ung Chính còn làm ba việc nữa, còn gọi là ba biện pháp phối hợp. Một là, phát hai lần lương cho thượng thư, thị lang (chính phó, bộ trưởng) của năm bộ Lại, Hộ, Binh, Hình, Công và đại học sĩ quản bộ vụ. Vì họ không được nhận tiền dưỡng liêm, trong tay lại có quyền, sẽ khó tránh chuyện các quan địa phương tìm đến họ, dùng tiền để đổi quyền. Các quan kinh thành khác đều được tiền trợ cấp. Hai là, quy định mức phí khi làm việc công, các quan địa phương cũng được cấp loại phí này và tùy nghi sử dụng, miễn báo cáo. Như vậy, mỗi khi đi làm việc công, các quan luôn chi tiêu bằng tiền của mình, đương nhiên, họ phải biết tiết kiệm. Kết quả, mượn cớ đi làm việc công để tiêu tiền - lỗ hổng hại công lợi tư này cũng được bịt lại, thói quen xa xỉ cũng dần dần biến mất.

Việc thứ ba là bỏ thói móc ngoặc xấu xa. Cụ thể là, nghiêm cấm đưa lễ biếu và bỏ quy lễ. Thế nào là quy lễ, là lễ tiền do tục lệ quy ước. Như quan châu quan huyện một lần đến gặp quan tuần phủ, nha môn đòi chi mười sáu lạng tiền môn bao (phí mở cửa và phí thông báo). Nạp một ngàn lạng tiền thuế, phải nộp thêm ba mươi lạng phí thủ tục. Cấp dưới gặp cấp trên bàn việc công, trước hết phải nộp tiền làm gạch gõ cửa; người đi nộp thuế nộp xong là hoàn thành nghĩa vụ, nhưng vẫn phải nộp thêm tiền để tạ ơn người thu thuế. Quy chế kiểu gì thế? Quy chế đốn mạt! Vì vậy Ung Chính hạ lệnh cấm thu mọi loại “phí nhận”. Ung Chính rất tán thành quan điểm của Điền Văn Kính: “Muốn cấm châu huyện tăng chi tăng phí, trước hết phải cấm cấp trên; muốn cấm cấp trên, trước hết phải bỏ những quy định tệ hại”. Vì vậy, Ung Chính thông lệnh cả nước: “Nếu còn ai dám thu riêng quy lễ, người đó phạm tội nặng, thứ đến đốc phủ - người quản lý trực tiếp cũng bị xử tội”.

Lúc này gần như Ung Chính đã bịt hết mọi lỗ thủng dẫn đến hủ bại. Ung Chính đã thành công?

Tiếc là chưa.

Năm 1735, Ung Chính tạ thế, Càn Long kế vị. Bắt đầu từ người con bảo bối của Ung Chính, Cao Tông Thuần hoàng đế luôn được ca ngợi là cao hơn tất cả, đế quốc Đại Thanh lại rơi vào hủ bại. Gia tài của Hòa Thân, một đại học sĩ triều Càn Long có tới tám vạn lạng tương đương với thu nhập trong mười năm của chính phủ lúc đó, gấp mười bốn lần tài sản riêng của vua Pháp Louis XIV; gấp mười sáu lần quốc khố trong năm năm thời Ung Chính và gấp một trăm lần quốc khố trong những năm cuối thời Khang Hy.

Người xưa nói: “Ân với người quân tử, cũng chỉ được năm đời là hết”. Ung Chính cải cách chưa được hai đời đã hết, thật quá ngắn ngủi!

Điều này đáng để chúng ta phải suy ngẫm.

Trước Ung Chính, lịch sử Trung Quốc từng mấy cuộc cải cách đầu voi đuôi chuột, không thể hoàn thiện. Sở dĩ như vậy, chẳng phải quyết tâm không lớn, khả năng không mạnh, chuẩn bị chưa đủ, suy nghĩ chưa kỹ, hoặc những biện pháp phối hợp chưa xứng. Những vấn đề đó, Ung Chính đều không mắc phải. Một là, Ung Chính là hoàng đế, cương nghị độc đoán, tay nắm đại quyền, nói một là một, tung hoành mạnh mẽ, các danh thần cải cách thời đại không ai sánh kịp. Hai là, Ung Chính ở phiên để rất lâu, nhiều ngày phò chính, lúc là hoàng tử đã thấu hiểu đúng sai của đế quốc, đã có suy nghĩ chu đáo cho việc cải cách trong tương lai, từ lâu đã có dự mưu. Ba là, Ung Chính suy nghĩ để cải cách là rất đúng, có thể nói là chuẩn bị dư luận đâu vào đấy, sắp đặt chu đáo, phòng bị nghiêm mật, đánh trúng then chốt. Rất nhiều biện pháp đến nay vẫn còn gần với thực tế. Và còn một điểm quan trọng nữa, Ung Chính hoàn toàn có đủ điều kiện và tố chất của nhà cải cách. Ung Chính có đủ lòng tin, lại thấu hiểu tình hình, làm việc không biết mệt mỏi, đâu ra đấy hiệu suất rõ ràng; Ung Chính cương nghị quyết đoán, luôn luôn thận trọng, luôn theo lẽ phải và biết mở rộng đường ngôn luận. Ung Chính không phải vị hoàng đế không biết lượng sức chỉ thích thú với công danh, càng không phải là vị vua tầm thường, không màng tới thắng lợi, chỉ biết văn vẻ trang sức qua ngày. Ý chí mạnh mẽ và bàn tay sắt của Ung Chính được hình thành từ ba cơ sở: sự anh dũng, dứt khoát của người Mãn, kinh nghiệm phong phú của một hoàng tử nhiều năm dự chính và sự hun đúc tinh thần văn hóa Mãn Hán. Tất cả những cái đó khiến cho cuộc cải cách của Ung Chính vừa có động tác mạnh, đầy đủ lý lẽ, lại được phòng bị kín kẽ, tránh mọi sơ hở, tóm lại người lắm tiền nhiều vốn thì làm gì cũng thuận lợi, dễ dàng.

Nhưng vì sao cuối cùng vẫn bị thất bại?

Chúng ta phải nhìn lại xem, lúc đó tại sao Ung Chính có thể thành công?

Trong thời gian chấp chính, cải cách của Ung Chính đã có những thành công rực rỡ, ngoài những nguyên nhân đã nói, còn vì Ung Chính dựa vào quyền uy tuyệt đối chỉ các bậc đế vương mới có. Cũng tức là, Ung Chính dựa vào đặc quyền và cường quyền để tiến hành cải cách. Câu nói “Ung Chính vừa cải cách, chính trị đã đổi mới” luôn gắn liền với điều kiện quan trọng nhất này. Ví như tiền hao tổn quy công, từ lâu đã được các vị tổng đốc Hồ Quảng - Dương Tông Nhân, tuần phủ Sơn Tây - Nặc Mân và tuần phủ Hà Nam - Thạch Văn Trác đề xuất. Ung Chính đã giao nghi án cho hội nghị cửu khanh thảo luận, kết quả là đa số không tán thành. Một số quan viên khác đua nhau dâng tấu phản đối. Nếu việc đang tranh chấp mà cứ cho tiến hành, cải cách sẽ biến thành việc vô thời hạn. Lập tức, Ung Chính phát thượng dụ, chấm dứt tranh luận, điều động số quan viên gây trở ngại. Thậm chí Ung Chính cũng không tán thành làm thí điểm ở Sơn Tây. Ung Chính nói: “Việc thiên hạ có cái đáng làm, có cái không đáng làm! Nếu thấy có thể làm thì thông báo rộng rãi trong thiên hạ; nếu thấy không nên làm thì việc gì còn phải làm thí điểm ở Sơn Tây?”. Rõ ràng, nếu Ung Chính không độc đoán chuyên hành, cứ để các quan tranh luận, cải cách đã trở thành bong bóng.

Điều đó gọi là “chỉ một người trị thiên hạ”. Hoặc nói là, nhân trị và độc tài. Nhìn từ việc tiền hao tổn quy công, độc tài và nhân trị chẳng có gì là không tốt. Nếu như Ung Chính không độc tài thì sự việc đã khác. Nhưng chúng ta không thể dựa vào chế độ độc tài. Nghĩ xem, nếu một kẻ hư hỏng, một bao cỏ hoặc một tên côn đồ có được quyền độc tài đó thì sẽ ra sao? Hắn cứ cưỡng chế thi hành thì e không phải cải cách ích nước lợi dân như tiền hao tổn quy công, hoặc phân bố tráng đinh theo đơn vị ruộng đất mà không biết đó sẽ là gì đó hại dân hại nước.

Có thể vì thấy trước mối nguy cơ đó, nền văn hóa Trung Quốc mới đưa ra phương án đức trị và lễ trị để hạn chế “một người trị chính” của hoàng đế. Cũng tức là, hoàng đế cũng không thể làm bừa. Làm gì cũng chỉ là những suy nghĩ tốt đẹp. Vì đức và lễ còn đồng thời quy định, không ai được nghi ngờ hoặc dao động trước uy quyền tuyệt đối của hoàng đế. Nếu ngươi phản đối sự độc tài của hoàng đế thì chính ngươi là người đầu tiên vi lễ phạm đức. Vì vậy, dù có lễ và đức hạn chế và quy định, nhưng có không ít các bậc đế vương trong lịch sử là những kẻ thất đức vô lễ. Đức và lễ có làm gì được chúng đâu, chỉ còn chờ thời cơ thay triều đổi đại.

Đương nhiên, đức và lễ cũng quy định là vua mà vô đạo, thiên hạ có thể đánh, có thể giết. Có điều, “vô đạo” nói ở đây phải giống như “vô đạo” nói ở chỗ Kiệt, Trụ. Nếu chỉ là tiêu cực, lãn công như hoàng đế Vạn Lịch triều Minh thì đức và lễ cũng đành chịu.

Kỳ thực, dù là cần mẫn, trí tuệ như Ung Chính cũng không phải không có vấn đề. Để bảo đảm rằng mình nắm trọn đại quyền và không hề có sai sót gì, Ung Chính tự mình nghe ý kiến các nơi, tự mình nắm rõ mọi chuyện lớn bé. Hàng ngày, ngoài việc hoàn thành các loại lễ nghĩa, gặp gỡ nhiều thần liêu trong ngoài, Ung Chính còn phải phê duyệt tấu chương, bình quân mỗi ngày phải phê bảy, tám ngàn chữ. Bất kỳ ai mới bước vào nghề viết lách đều rõ, một ngày bảy, tám ngàn chữ là khái niệm thế nào. Liệu có mấy hoàng đế, tinh thần phấn chấn, đầu óc nhanh nhạy, sức lực dồi dào như Ung Chính? Nếu có thì sớm muộn gì cũng sẽ mệt mỏi, gục ngã. Những người kế nhiệm Ung Chính, hoặc không có đầu óc, có sức khỏe, không nhiệt tình như Ung Chính, hoặc không muốn mình phải gục ngã, chắc sau này không có ai làm việc được như Ung Chính.

Điều quan trọng hơn là, điều kiện để Ung Chính cải cách thành công lại trái ngược với mục tiêu cải cách của Ung Chính. Ung Chính muốn trừng trị hủ hại, nhưng lực lượng hủ hại lại sinh ra từ đặc quyền của Ung Chính, và đặc quyền lại là nguồn gốc của hủ bại. Không có đặc quyền thì không thể có hủ bại; không có đặc quyền cũng không có cách gì để trừng trị hủ bại. Một nút buộc rất chặt. Trong các thời đại vương triều phong kiến, chưa có ai mở được nút buộc đó, Ung Chính cũng vậy.

Ung Chính cũng chưa nghĩ đến một điểm nữa, sức cản trong công cuộc cải cách của Ung Chính không chỉ có số quan viên ngoan cố, lòng dạ bất lương mà còn có thế lực truyền thống mạnh mẽ. Truyền thống này là một lực lượng văn hóa, không ai có thể làm biến đổi hoặc chống đối. Liệu Ung Chính có thể không cho mọi người bàn về nhân tình, về thể diện, về chuyện đời được không? Không thể. Vậy Ung Chính cũng sẽ chẳng có cách gì để loại bỏ được các hiện tượng sau: Mời khách đưa lễ, nịnh hót bợ đỡ, kéo bè kết đảng, bênh kẻ cùng cánh đánh người khác mình, ghen tuông đố kỵ, tình người lớn hơn vương pháp… Không loại bỏ được những hiện tượng này thì nền chính trị trong sáng, quan lại liêm khiết chỉ là mấy câu nói suông, sự hủ bại đã bị trừng trị, sớm muốn gì sẽ lại phục sinh từ đống tro tàn.

Đương nhiên, Ung Chính không thể phản đối đặc quyền, phản đối nhân trị, phản đối văn hóa truyền thống.

Cho nên, Ung Chính chưa là bên thắng.