Yêu thương và tự do - Chương 20

Chương 20

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO

MÔI TRƯỜNG TỐT CHO CON TRẺ?

“Môi trường phải có sức sống, giáo viên phải luôn tự hoàn thiện mình… Nếu giáo viên không chịu thay đổi, thì không thể tạo cho trẻ một môi trường có sức sống”. Câu nói này cũng phù hợp với những người làm cha mẹ. Nếu một người lớn luôn cứng nhắc, khép kín thì môi trường gia đình đó cũng sẽ thiếu sức sống, kiềm chế sự trưởng thành của con trẻ. Nếu trạng thái của người lớn là cởi mở, chuyển động… thì họ cũng cảm nhận được sự cởi mở và trưởng thành trong cuộc sống của con trẻ, hỗ trợ con trẻ trưởng thành.

Tự nhiên sáng tạo ra mỗi con người, mỗi sinh mạng đều không giống nhau. Mỗi con người đều có thể xây dựng hệ thống sinh tồn và phát triển tự phát của mình. Đây chính là bản năng tự nhiên đã ban tặng cho chúng ta, có như vậy thế giới này mới trở nên nhiều màu sắc, sáng tạo và tràn đầy sức sống.

Một nhà tâm lý học đã nói một câu thế này, cá tính và sức sáng tạo có liên hệ với nhau. Trên thực tế, cá tính nào cũng đẹp.

Con trẻ căn cứ trên cá tính của mình để xây dựng tư duy và phương thức tình cảm của riêng trẻ. Ví dụ về mặt ngôn ngữ, có những đứa trẻ có thời kỳ nhạy cảm ngôn ngữ rất muộn, hơn 2 tuổi mới bắt đầu tập nói; có những đứa trẻ mới hơn 1 tuổi đã nói được cả câu. Chúng tôi phát hiện thấy những trẻ biết nói muộn rất phát triển về khả năng tư duy logic; những trẻ biết nói sớm thì nhanh nhẹn, khả năng phản ứng, khả năng ứng biến tốt. Thế nên, bạn không thể nói trẻ biết nói sớm hay biết nói chậm thông minh hơn.

Phương pháp giáo dục Montessori tạo điều kiện phát triển cho từng trẻ, trong đó tự do là điều kiện phát triển tốt nhất. Có tự do, con trẻ học được cách luyện tập lặp đi lặp lại một sự vật và thực thể hóa sự vật đó. Đứa trẻ nào cũng theo đuổi hoạt động này, và hoạt động chuyển hóa tri thức thành năng lực này gọi là sức sáng tạo. Khi mốc 6 tuổi qua đi, một khi tâm trí mang tính hấp thu cũng không còn, trẻ sẽ bắt đầu hấp thu những tri thức được giảng giải bằng lời từ bên ngoài. Sức sáng tạo và cơ chế chuyển hóa tri thức thành năng lực đã được xây dựng một cách kiên cố trong bản thân trẻ, để trẻ sử dụng suốt cả cuộc đời. Vì thế mục đích và phương pháp giáo dục mới hoàn toàn khác hẳn so với quan niệm giáo dục trong quá khứ.

Ví dụ như ngôn ngữ. Chúng ta phát hiện rất nhiều trẻ có sức sáng tạo về mặt ngôn ngữ. Con trẻ thích trốn ở những nơi không người, ví dụ góc nhà, gầm bàn, vách tủ, trong hốc cây để nói chuyện với nhau. Ở trường mầm non Montessori có một bé khi theo mẹ đến ăn cơm ở nhà ăn, lúc đó là mùa đông, khi bé há miệng, hơi bốc ra, bé nói: “Mẹ ơi nhìn xem đây là cái gì?”. Mẹ bé nói: “Hơi nước”. Bé bảo: “Không phải, đây là lòng nhiệt tình như lửa”. Lúc đó tất cả mọi người đều cười. Mẹ bé hỏi sao lại nói như vậy, bé trả lời: “Giờ âm nhạc mấy hôm nay chúng con đang học bài hát ‘Nữ thần vui vẻ’, trong đó có một câu là: ‘Chúng tôi mang lòng nhiệt tình như lửa đến với các bạn’. Mẹ thấy chưa, lòng nhiệt tình như lửa, vì thế con phải thổi nó ra”.

Nhưng, hãy nhìn những người lớn chúng ta mà xem! Có lần, một cô giáo trường chúng tôi đi ngang qua cổng một trường mầm non, thấy cô giáo và học sinh đang chuyền bóng. Cô giáo ném bóng cho học sinh, học sinh không bắt được, cô nói: “Ngốc thật đấy, có thế mà cũng không bắt được”. Em bé vội chạy đi nhặt bóng. Nhặt được bóng, bé ném bóng cho cô, lần này cô cũng không bắt được. Lúc đó, cô giáo của chúng tôi nghĩ, bây giờ chắc học sinh đã có thể nói là cô ngốc thật đấy. Nhưng không, cô giáo kia nói: “Ngốc thật đấy, chuyền bóng cũng không biết chuyền”. Nghe xong, cô giáo của chúng tôi mắt chữ O mồm chữ A, trở về nói với chúng tôi: “Đúng là muốn nói ngoa làm cha mà nói, giờ thì muốn nói ngoa làm cô mà nói”.

Đây chính là cách nói của một số người lớn. Khi chúng ta đối diện với trẻ, kinh nghiệm trưởng thành và các thói quen trong quá khứ đã bộc lộ hết. Chúng ta thích thuyết giáo, bởi vì chúng ta bị đè nén quá lâu, không có cách nào để đối phó lại với những người lớn, nên đành đối phó với những trẻ nhỏ yếu hơn mình. Người lớn không ý thức được những yếu kém của mình. Những trẻ trưởng thành trong môi trường này không có sức sáng tạo, những gì trẻ học được chỉ là quan sát sắc mặt của người khác, làm việc tùy theo tình thế để giảm bớt điều kiện sinh tồn thấp kém của mình. Nhưng người lớn sẽ nói: “Đứa trẻ này thông minh thật đấy!”. “Một đứa trẻ thông minh như thế mà không chịu khó học tập”.

Vậy thông minh là gì?

Hãy để chúng tôi dùng lý luận của Montessori xây dựng khái niệm liên quan đến sức tưởng tượng và sức sáng tạo. Montessori cho rằng: Sức tưởng tượng và sức sáng tạo là khả năng trời phú cho con người, được phát triển sau khi năng lực tâm lý và trí tuệ được hình thành trong quá trình trẻ tương tác với môi trường. Bởi vì trẻ phải tổ chức lại những tri thức mà mình đã cảm nhận được, nên môi trường nhất thiết phải chân thực. Có như vậy, con trẻ mới có thể trừu tượng hóa những phẩm chất riêng, chủ yếu của sự vật, từ đó có thể liên kết thành công hình tượng các sự vật và lưu giữ ở mặt ngoài cùng của ý thức. Montessori nhấn mạnh rằng, khả năng trừu tượng này đòi hỏi ba phẩm chất riêng: Thứ nhất, cần phải có sức chú ý đáng kinh ngạc và khả năng tập trung toàn phần, đây gần như một loại trạng thái chỉ xuất hiện khi trầm tư; thứ hai, cần có sự tự chủ tương đối và năng lực phán đoán độc lập; thứ ba, cần phải có lòng tin chờ đợi để tiếp nhận chân lý và sự thực bất cứ lúc nào.

Có người hỏi, phương pháp giáo dục Montessori chỉ tiến hành ở cấp mầm non, vậy thì gia đình và xã hội có thể phối hợp được không? Liệu giáo dục ở gia đình và giáo dục ở trường mầm non có thể thống nhất với nhau? Ngoài ra, sau khi rời khỏi trường mầm non, trẻ còn phải học tiểu học, trung học cơ sở… Lúc này, phương pháp giáo dục trẻ cũng hoàn toàn khác biệt, vậy làm thế nào để phương pháp Montessori có thể vươn xa, tỏa rộng?

Đây là câu hỏi mà rất nhiều người làm cha mẹ đã đưa ra, bởi vì có những trẻ sống cùng ông bà, hoặc người giúp việc nên gia đình không thể phối hợp với nhà trường. Khi trẻ vào trường Montessori, chúng tôi luôn yêu cầu gia đình phối hợp với nhà trường, nếu gia đình không phối hợp, chúng tôi không nhận trẻ. Chúng tôi phát hiện ra, sự phối hợp của bố mẹ và nhà trường khiến con trẻ phát triển rất tốt.

Trên thực tế những người gửi con đến trường Montessori đều là những người có quan niệm hết sức tiến bộ, có tầm nhìn xa. Cho dù làm phép so sánh thì mức học phí của trường Montessori cao hơn mặt bằng chung, nhưng rất nhiều người làm cha mẹ vẫn chấp nhận. Vấn đề là phương pháp giáo dục mới và cũ quá khác nhau khiến cho những người thực thi cảm thấy quá áp lực, bên cạnh đó là cảm giác trách nhiệm và sứ mệnh cao cả. Thay đổi quan niệm của cha mẹ, để cha mẹ cùng trưởng thành với con cái, để trưởng thành trở thành trách nhiệm chung của cả gia đình và nhà trường, trưởng thành đem lại niềm vui cho tất cả mọi người.

Trường Montessori yêu cầu tố chất của giáo viên rất cao, mỗi lớp chỉ từ hai mươi đến hai mươi lăm trẻ. Trẻ có đầy đủ không gian và thời gian để tiếp xúc với giáo viên, được sử dụng đầy đủ những giáo cụ và công việc mà giáo viên đã chuẩn bị cho con. Sau khi tiếp nhận phương pháp giáo dục Montessori, gia đình đã phát hiện ra những thay đổi không thể tưởng tượng của con trẻ.

Ngoài ra, một số cha mẹ khác thì lo lắng khi con vào học lớp một sẽ thế nào? Theo hiểu biết của chúng tôi, giáo dục Montessori không những đặt nền móng cơ bản cho tiểu học, mà còn đặt nền móng cho cả cuộc đời con trẻ. Giáo dục Montessori không chú trọng đến những kiến thức cụ thể, nên cho dù trẻ lên bậc tiểu học, cũng vẫn cần chú trọng quá trình tri thức chuyển hóa thành năng lực. Trên thực tế, rất nhiều cha mẹ phát hiện ra rằng, khi trẻ có được tư duy tính sáng tạo, trẻ nắm vững các quy luật và chuẩn mực của cuộc sống, trẻ sẽ biết mình nên làm gì, vào lúc nào. Con trẻ nắm vững khái niệm một cách chuẩn xác, một, hai năm sau, bạn phát hiện ra rằng, không những trẻ có sức khỏe tốt, ý chí hơn người, thích làm toán mà còn có thể thảo luận với bạn những vấn đề khá có chiều sâu. Bạn ngạc nhiên hỏi: “Con học khi nào?”. Trẻ nói con không biết. “Ai dạy con?”. Trẻ cũng nói con không biết. Con trẻ đã tiếp nhận tri thức một cách tự nhiên, vui vẻ và tự giác vận dụng tố chất ấy, khả năng ấy vào cả cuộc đời của mình.

Trong quá trình dạy học, chúng tôi cũng phát hiện, rất nhiều học sinh không học theo phương pháp của giáo viên, tự các em tổng kết ra “phương pháp riêng” của mình, đây chính là điều quan trọng nhất, cũng là điều khiến giáo viên chúng tôi tâm đắc nhất.

Vậy khi nào thì con trẻ cần đến cái gọi là tri thức?

Sau 6 tuổi, “tâm lý và trí lực mang tính hấp thu” của con trẻ về cơ bản sẽ mất đi, trẻ bắt đầu tiếp nhận “tri thức”, cũng chính là bắt đầu tiếp nhận những thứ được truyền thụ bằng hình thức “tri thức”. Trước 6 tuổi, trẻ không tiếp nhận những tri thức trừu tượng, trẻ chỉ tự lựa chọn ra một số sự việc để không ngừng phát triển tiềm năng và sức sáng tạo của trẻ. Đối với trẻ trước 6 tuổi, tri thức và kỹ năng giống như đồ ăn trong bức ảnh, là những đồ vật mang tính gián tiếp.

Piaget (1896 - 1980) là nhà tâm lý học nổi tiếng của Thụy Sĩ, cũng là một nhà tâm lý học giáo dục mầm non hiện đại, ông nói với mọi người rằng, trẻ em thông qua các hoạt động để xây dựng bản thân. Ví dụ trẻ cầm cốc, trẻ liên tục cầm lên, đặt xuống... Trong quá trình ấy trẻ đã hình thành kinh nghiệm, kinh nghiệm ấy sinh ra trí lực, trí tuệ của con trẻ. Kinh nghiệm đó nói với trẻ rằng, lần sau phải làm thế nào cho tốt hơn. Những lời thuyết giáo của người lớn không thể giúp gì cho trẻ trong những việc này, người lớn bảo: “Con ơi, con để cái bát thế này sẽ không vỡ”. Không tác dụng gì, lần sau trẻ vẫn làm vỡ bát. Nhưng khi trẻ con được sử dụng cái bát, được luyện tập việc sử dụng, quá trình ấy sinh ra kinh nghiệm, kinh nghiệm sinh ra trí tuệ.

Giáo dục truyền thống dạy học theo phương pháp “nhồi nhét”, không cần biết trẻ có hứng thú hay không mà cứ dụ dỗ và khích lệ để kêu gọi lòng nhiệt tình của học sinh, cố gắng nhồi nhét những thứ gọi là “tri thức” vào đầu con trẻ. Trong trạng thái giáo dục này, sức sáng tạo của con trẻ bị vùi dập, một khi con trẻ qua ngưỡng 6 tuổi thì không có cách nào khai phá trở lại. Phương pháp giáo dục mới không chỉ khiến con trẻ biết tên mà còn biết bản chất, và quy luật nội tại của sự vật.

Biết sự vật đó như thế nào cũng chưa phải mục đích cuối cùng, mà chỉ là một kết quả. Bởi vì trẻ cảm thấy hứng thú nên sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần, vì lặp đi lặp lại mà tập trung, từ tập trung mà sinh ra khả năng tự khống chế bản thân, trẻ có thể tự điều khiển bản thân rồi có ý chí, có ý chí nên có thể đào sâu bản chất của sự việc. Vì thế, biết sự vật mới chỉ là một công cụ, con trẻ mượn công cụ ấy để phát triển bản thân. Đây vốn là một quá trình tự nhiên. Trong quá trình này, tri thức, học tập chỉ là thứ bổ sung. Nhưng giáo dục truyền thống lại làm ngược lại, lại coi tri thức và học tập là mục tiêu cuối cùng, và thế là tai nạn đã xảy ra với con trẻ. Chúng ta biết rằng, rất nhiều tai nạn đều bắt nguồn từ đây.

Công việc của chúng ta chính là cho trẻ một môi trường phát triển tốt, đây là một công việc rất khó khăn.

Xuất phát từ nguyên tắc, môi trường của trẻ cần sự tự do, đẹp, chân thực, tự nhiên, trong đó điều kiện cốt lõi chính là giáo viên. Giáo viên là môi trường quan trọng nhất. Vậy thì một giáo viên như thế nào mới có thể giúp trẻ phát triển? Montessori nhấn mạnh rằng: “Môi trường phải có sức sống, giáo viên phải tự hoàn thiện bản thân mình … Nếu giáo viên không chịu thay đổi mình, thì không thể tạo cho trẻ một môi trường có sức sống”. Điểm này đặc biệt quan trọng. Nhà bạn tôi sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp, có trật tự, đơn giản, sáng sủa… Tất cả những điểm này đều phù hợp với tiêu chuẩn Montessori, nhưng mỗi khi đến nhà họ tôi đều có cảm giác không thoải mái. Cô ấy bảo: “Vì con gái tớ, cậu nhất định phải tìm cho tớ nguyên nhân”. Sau đó, tôi bỗng nhận ra, tôi nói: “Hình như nhà cậu thiếu sức sống”. Cô ấy bảo: “Thế chúng tớ không phải là sự sống sao?”. Tôi nói: “Các cậu có tự mình trưởng thành không?”. Cô ấy trầm tư, sau đó nghi ngờ hỏi: “Chúng tớ phải tự trưởng thành sao?”. Đó chính là điều Montessori đã nói, nếu cuộc sống của một người trưởng thành không thay đổi, thì cá tính của người đó sẽ rất cứng nhắc. Một người không chịu thay đổi thì sẽ không có quá trình tự trưởng thành. Khi bạn thay đổi, bạn giống như một dòng sông không ngừng chảy. Bạn phải là một dòng sông chảy, nếu không bạn sẽ không bao giờ cảm nhận được con mình.

Giáo viên chính là dòng sông chảy trong môi trường này. Khi giáo viên không ngừng phát triển bản thân mình, cả môi trường sẽ trở nên có sức sống. Trong “Jean Christophe”, Romain Rolland có nhắc tới một người hàng xóm làm giáo viên, người đó lúc nào cũng quay như con thoi, hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, luôn luôn bận rộn, không bao giờ thay đổi. Điều này khiến người ta cảm thấy thật bi ai. Nó đem đến cho người ta một cảm giác, dường như làm giáo viên là phải như thế, nhưng một giáo viên Montessori tuyệt đối không được như vậy. Tất cả giáo viên ở trường chúng tôi đều đang không ngừng phát triển. Tất cả mọi người đều nói rằng, giáo viên của chúng tôi luôn thay đổi, nếu không thay đổi, cô không thể mang lại cho trò một môi trường có sức sống.

Tôi biết, rất nhiều bạn học xa nhau mấy chục năm, gặp lại nhau luôn nói: “Cậu vẫn thế!”. Thật không biết nên cảm thấy vinh dự hay bi ai, vì trạng thái của một con người không nên là như vậy. Cả quá trình từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi là một quá trình không ngừng hoàn thiện, không ngừng tự trưởng thành, cho dù là đã sau tuổi ba mươi (bởi vì có rất nhiều người sau ba mươi tuổi sẽ không tiếp tục trưởng thành). Khi bạn đem tình yêu của mình cho người khác, cho con cái, cho bạn đời, cho xã hội… cả cuộc đời bạn sẽ thay đổi. Giống như Russell(*) đã nói, con người khi mới sinh ra giống như một giọt nước ngưng tụ trong không trung, rồi trở thành giọt mưa hay bông hoa tuyết rơi xuống núi cao và đất rộng; lại giống như những bông tuyết trên núi cao, tan chảy hòa vào dòng suối nhỏ chảy xuống; đến thời niên thiếu, dòng suối ấy ngày một lớn rộng, cuồn cuộn chảy xiết; đến thời thanh niên hội tụ thành dòng sông gào thét chảy về xuôi; đến thời trung niên trở thành dòng trường giang hiền hòa, sông rộng nước nhiều; đến khi về già, dòng chảy ấy trở nên khoáng đạt hiền hòa, sau cùng đổ ra biển lớn. Trạng thái phát triển của một con người nên là như vậy. Khi con người có được trạng thái phát triển như thế này, môi trường mà con người tạo ra cũng sống động, đầy sinh khí.

(*) Bertrand Arthur William Russell, Bá tước Russell III (1872 - 1970): một triết gia, nhà logic học, nhà toán học người Anh.

Trong một môi trường giàu sức sống, con trẻ được tự do phát huy mọi tiềm năng của mình. Nếu bạn tạo ra một môi trường không có sức sống, môi trường ấy sẽ kìm hãm con trẻ phát triển, bởi vì ở trong môi trường này, chính bạn cũng không thể cảm nhận được sự trưởng thành của con trẻ. “Giáo viên phải có thái độ cởi mở với cuộc sống”. Nếu giáo viên cũng trưởng thành cùng con trẻ, cô sẽ có thái độ cởi mở với bản thân, với con trẻ và với cả trạng thái cuộc sống, cô biết chờ đợi con trẻ. Còn nếu cô đứng yên, cô sẽ không thể nhận ra sự thay đổi của con trẻ.

Chỉ khi giáo viên thay đổi, giáo viên mới cảm nhận được sự thay đổi của trẻ. Trạng thái cuộc sống có sức lan truyền, sức hút lớn lao nhất. Mỗi khi đi qua một bóng cây râm mát, không khí mát mẻ ùa đến đó cho chúng ta một cảm giác thật đặc biệt. Cảm giác đó là cảm giác của sinh mệnh với sinh mệnh, một sự tương đồng, một sự hài hòa, một sự truyền sức mạnh, cho đi sức mạnh. Hãy thử xem, những lúc tinh thần bạn không vui nhất, chạy vào rừng sâu, hoặc chạy vào dưới tán cây, đứng ở đó, bạn sẽ cảm thấy tinh thần của mình ổn định hơn hẳn. Bạn nhận được điều gì từ bóng cây? Đó là năng lượng. Khi bạn cảm thấy khô kiệt tâm tư, khả năng nhất, hãy chạy vào rừng sâu, bạn sẽ có những linh cảm mới. Nếu trạng thái của bạn rất mạnh mẽ, bạn vẫn luôn không ngừng phát triển, bạn sẽ cho con trẻ một môi trường giàu sức sống, con trẻ có thể cảm nhận được môi trường không ngừng phát triển ấy từ chính bản thân bạn.

Con trẻ cảm nhận nguồn năng lượng từ đâu? Nhờ có tình yêu của chúng ta, trẻ sẽ có cảm giác an toàn để phát triển bản thân mình. Nếu chúng ta không cho trẻ đầy đủ năng lượng của tình yêu, trẻ không thể phát triển tốt.

Con trẻ là một bộ phận của tự nhiên, không giống như người lớn chúng ta đã xa rời tự nhiên, càng ngày càng cách xa. Ví dụ như con trẻ chơi với chó mèo, rất thân thiết, rất gần gũi. Các con vật cũng không đề phòng, không trả đũa trẻ. Trước đây, nhà tôi có nuôi một con mèo, đầu tiên quan hệ giữa mèo và con tôi rất tốt. Khi con tôi hơn 1 tuổi, còn hay cầm đuôi nhấc con mèo lên, hoặc cưỡi cả lên con mèo. Đối với con tôi, con mèo không khác gì con ngựa, con mèo bị nó giày vò đến nỗi “tinh thần phân liệt”. Mèo cứ thấy cu cậu ở đâu thì lập tức trốn ngay. Con tôi đi khỏi, mèo mới bò ra, nằm trên bàn của chồng tôi, nhìn chồng tôi viết sách, hoặc là tự chơi một lúc. Khi căn phòng hoàn toàn yên tĩnh, có một chú mèo ở đó càng khiến cho sự yên tĩnh thêm sâu sắc. Điều lạ là mèo không hề tức giận với trẻ con, nó không hề trả đũa con trai tôi, nó chỉ trốn mà không cào, không bắt. Có những lúc, chúng tôi còn lôi cả mèo và người từ trong gầm giường ra cùng một lúc.

Montessori nói: “Trẻ em là một phần của tự nhiên”. Hãy nhớ kỹ, trẻ em tồn tại như một phần của tự nhiên. Trẻ em phải nhận được một phần ưu tú nhất từ tinh thần của người lớn. Chỉ khi giáo viên cũng trưởng thành, con trẻ cảm nhận được điều đó từ bản thân giáo viên, đó mới là môi trường và trạng thái tốt nhất cho trẻ. Đến tuổi 40, thậm chí là trước đó, người lớn đã từ bỏ lý tưởng và hy vọng của mình, điều đó cũng có nghĩa là từ bỏ sự phát triển bản thân. Vạn vật đều đang phát triển, tại sao một con người ngừng phát triển lại được coi là bình thường? Không phát triển có nghĩa là sa sút về tinh thần, có nghĩa là không còn cảm giác với thế giới này, có nghĩa là chúng ta không còn những niềm vui đích thực. Không còn những điều căn bản ấy, thì cuộc sống của chúng ta còn có nghĩa lý gì với con trẻ?

Chị của bạn gái tôi, khi kết hôn không được mẹ chồng mua cho chăn len. Những năm 50 của thế kỷ XX, Trung Quốc vẫn rất nghèo, một chiếc chăn toàn len rất quý. Chiếc chăn len ấy cùng năm tháng cũng biến thành một nỗi khúc mắc trong lòng chị. Suốt mấy chục năm nay chỉ cần cãi nhau với chồng, câu chuyện cái chăn len lại được nhắc tới. Bây giờ điều kiện đã tốt hơn, thừa sức mua một cái chăn len khác, nhưng không được, phải là cái chăn len năm ấy. Trạng thái tâm trí và cuộc sống ấy, rõ ràng là của một đứa trẻ 3 tuổi. Một người phụ nữ như thế không bao giờ có thể trở thành một người mẹ tốt, một người vợ tốt. Người phụ nữ ấy sẵn sàng tranh cãi với con vì một việc nhỏ, đương nhiên là người lớn sẽ giành phần thắng. Phần lớn những người làm cha mẹ có khuynh hướng bạc đãi con cái đều là những người đã gặp bất hạnh ở tuổi ấu thơ. Họ không thể hiểu tại sao con trẻ lại làm như vậy, họ không thể khoan dung con trẻ, và họ càng thích bắt ép con trẻ hơn. Họ đã mất đi khả năng tìm hiểu, cho dù là đối với con trẻ hay là đối với cả thế giới này.

Vì thế trong thực tiễn giáo dục của chúng tôi có một kinh nghiệm, nếu cha mẹ không tán đồng quan niệm giáo dục Montessori, chúng tôi sẽ không nhận con cái họ. Chúng tôi biết rằng, khi cha mẹ không tán đồng quan niệm giáo dục này, họ sẽ chỉ trích trước mặt con, con trẻ bị cha mẹ ám thị, sẽ không thể chung sống hài hòa với môi trường. Ví dụ trường chúng tôi có một trẻ, bé được chuyển từ trường khác đến. Sau khi mẹ bé tìm hiểu về phương pháp giáo dục này thì đưa bé đến đây. Nhưng bố bé và ông bà bé đều phản đối. Vì bé được chuyển từ trường mầm non truyền thống đến nên bé rất thích sự tự do ở nơi đây, ngày nào bé cũng chơi rất vui vẻ, chơi xong thì ăn, ăn xong thì chơi, không hề vào lớp học. Đây là hiện tượng bình thường của những trẻ mới chuyển từ trường truyền thống vào trường Montessori. Nhưng khi bé về nhà, để lấy lòng bà, bé nói cô không cho bé ăn, không cho bé uống sữa, không cho bé ngủ. Mẹ bé đến hỏi, thì cô giáo rất ngạc nhiên, nói: “Ngày nào con ăn xong một bát em cũng lấy thêm cho con bát thứ hai, con ăn rất tốt mà”. Tôi đã đi hỏi riêng cô giáo, cô giáo nói bé có thói quen nói dối, sau đó tôi phát hiện ra vì bà của bé phản đối phương pháp giáo dục này, nên bé nói vậy để lấy lòng bà. Một đứa trẻ như vậy, bé sẽ biết dựa theo thái độ và yêu cầu của những thành viên trong gia đình mà nói dối để lấy lòng mọi người. Cứ như vậy, thì cho dù cô giáo có cố gắng đến bao nhiêu thì bé vẫn phát triển rất chậm, nhân cách vẫn phân liệt. Sự phát triển của con trẻ chịu sự ảnh hưởng lớn từ gia đình. Vì thế, chúng tôi không nhận những trẻ này. Sự ám thị của người lớn rất nặng nề. Ví dụ như tự do, có những cha mẹ nói trường quá tự do, nên rất nhiều trẻ em hỏi: “Mẹ ơi, tự do là gì hả mẹ?”. Điều này khiến con trẻ cảm thấy nghi ngờ.

Một con người không trưởng thành thì rất ngoan cố, có thể họ không chịu thay đổi một quan niệm từ mười mấy năm trước. Còn nhớ một lần, tôi có nói với một bạn học của mình rằng, nuôi con cần phải hiểu con, yêu con, tự tay chăm sóc con. Cô ấy nhờ người trông trẻ trông con, nên cô ấy nói: “Thuê người trông trẻ nhàn lắm, người ta vừa nấu cơm, vừa trông con cho”. Tôi nói với cô ấy: “Con là con của cậu, cậu không thể để người trông trẻ thay thế vai trò của người mẹ, điều đó có nghĩa là mẹ và con đang có một khoảng cách rất nghiêm trọng”. Đạo lý này vô cùng đơn giản.

Trường học phải chịu trách nhiệm đối với tiền đồ của con trẻ, đối với tố chất của cả dân tộc. Chúng tôi phải có những giáo viên tốt nhất, phải tạo cho trẻ một môi trường nhân văn nhất, đây cũng là nguyên tắc cao nhất. Trên thực tế, khi chúng tôi chọn giáo viên, chúng tôi luôn mong muốn người này có được một trạng thái tinh thần tốt nhất, giáo viên ấy phải tự giác, không ngừng và mạnh dạn phát triển bản thân mình. Nếu bạn phát hiện ra một sự vật đã giúp đỡ cho mình, bạn phải ngay lập tức nắm bắt sự vật ấy, bởi vì nó có thể thay đổi bạn. Liên tục nắm bắt, liên tục nắm bắt, mười năm sau, bạn sẽ thay đổi hoàn toàn, bạn phát hiện ra mình đã vượt xa những người xung quanh mình. Được như vậy bạn sẽ trở nên ưu tú, nếu bạn ưu tú, sẽ có một ngày bạn thành công. Bạn hãy kiên định niềm tin này. Xã hội này sẽ dùng những người ưu tú nhất. Xã hội không dùng bạn, chắc chắn là vì bạn còn có một nhược điểm chết người nào đó. Tôi luôn quan sát kỹ những con người và những sự việc ở xung quanh mình, tôi phát hiện ra, những người tài hoa rõ nét mà vẫn không được trọng dụng là vì bản thân người đó còn những nhược điểm chết người khác. Vì thế khi bạn tin vào bản thân mình, nâng cao bản thân, bạn sẽ tìm được vị trí thích hợp với mình, bạn sẽ có thể đặt mình vào vị trí mà bạn cảm thấy thích.

Nếu người lớn có thể không ngừng thay đổi bản thân mình, chúng ta sẽ phát hiện ra chúng ta đã tiếp thu được bao nhiêu phẩm chất ưu tú từ con trẻ. Vì con trẻ của chúng ta chưa từng “nhiễm sự đời”, không những trẻ mong chờ được phát triển, mà đồng thời trẻ cũng phản ánh những vấn đề của người lớn chúng ta. Ví dụ hai đứa trẻ tranh nhau một cái mũ, đánh lộn nhau. Một lát sau đứa bé đó lặng lẽ đến phía sau đứa kia, cô giáo nhìn thấy thì chột dạ: “Thôi chết, con cầm cái gì ra đánh bạn thế kia?”. Nhưng không phải! Bé mang cái mũ đó ra, đội cho cậu bạn ở phía trước, và còn đứng đó ngắm nghía một lúc, rồi đi! Nhưng người lớn chúng ta lại nghĩ rằng cậu bé đi báo thù. Đó là một việc nhỏ, nhưng chứng minh rằng dù ít dù nhiều người lớn chúng ta đã quan niệm như vậy. Trên thực tế, nếu bạn nhìn người khác với một tâm thái tích cực, bạn sẽ cảm thấy thế giới này vẫn tràn đầy hy vọng.

Thế nên, có thể tự phát triển bản thân là một phần quan trọng nhất khi theo đuổi phương pháp giáo dục này. Chỉ cần bạn không ngừng phát triển bản thân, bạn sẽ đạt được một trình độ nhất định. Vì thế, Montessori nói: “Giáo viên có thể tham dự vào những thay đổi liên tục trong cuộc sống của con trẻ hay không, mấu chốt là ở đây”.