Ấn tượng sai lầm - Chương 18 - 19 - 20

13/9

Chương 18

Tiếng đập cửa ầm ầm làm Anna giật mình tỉnh dậy. Cô dụi mắt và nhìn qua cửa kính. Một người đàn ông bụng phệ mặc quần bò đang đấm thình thình lên cốp xe. Trên tay kia của ông ta là một can bia không nắp đang sùi bọt. Anna vừa định la lên thì phát hiện thấy còn một người nữa đang cố gắng cậy bật cửa xe sau. Một xô nước lạnh cũng không làm cô tỉnh nhanh hơn thế.

Anna bò vào ghế lái và xoay khoá khởi động. Cô nhìn vào gương biên và giật mình khi thấy một chiếc xe tải hạng bốn mươi tấn đang đỗ ngay sau xe cô, khiến cô gần như không có đường thoát. Cô ấn tay lên còi xe, và điều đó chỉ càng khích lệ gã đàn ông đang cầm can bia trèo lên cốp xe và bò về phía cô. Anna nhìn rõ mặt gã, và gã nhìn cô bằng một ánh mắt dâm dật qua kính xe. Cô cảm thấy lạnh toát người và bủn rủn hết chân tay. Gã bò lại gần hơn nữa, rồi há chiếc miệng không răng ra và thè lưỡi liếm lên cửa kính, trong khi đồng bọn của gã vẫn tiếp tục tìm cách cậy bật cửa sau. Cuối cùng động cơ cũng khởi động.

Anna đánh mạnh tay lái, nhưng khoảng không giữa hai chiếc xe tải chỉ cho phép cô tiến lên được vào mét trước khi cho xe lùi lại. Cô nghe thấy một tiếng la to khi gã đàn ông đằng sau xe nhảy sang một bên. Anna gài số một và đạp mạnh lên chân ga. Khi chiếc xe lao về phía trước, gã đàn ông bụng phệ trượt khỏi cốp xe và ngã uỵch xuống đất. Anna gài số lùi, và cầu nguyện lần này sẽ có đủ chỗ để thoát ra. Nhưng trước khi xoay hết vòng vô lăng, cô liếc nhìn thấy gã đàn ông thứ hai lúc này đang nhìn cô chằm chằm qua cửa kính. Gã bám hai bàn tay hộ pháp lên nóc xe và bắt đầu lắc mạnh. Cô đạp mạnh lên chân ga, và chiếc xe chầm chậm kéo gã về phía trước, nhưng nó vẫn không thoát được ra ngoài. Anna lại cài số lùi lần thứ ba và kinh hoàng khi thấy hai bàn tay của gã đàn ông thứ nhất lại xuất hiện trên cốp xe trong khi gã đang cố đu người đứng lên. Gã lảo đảo tiến về phía trước và gí sát mũi vào kính xe, rồi làm một cử chỉ xoay ngón tay trỏ hướng xuống dưới. Sau đó gã nói to với tên đồng bọn của mình, “Tuần này tao làm trước đấy nhé”. Tên đồng bọn ngừng lắc xe và phá lên cười hô hố.

Anna toát mồ hôi lạnh khi thấy gã đàn ông bụng phệ đang khật khưỡng tiến về phía trước. Cô liếc nhìn vào gương biên và thấy tên còn lại đang trèo lên cabin chiếc xe của gã.

Ngay lập tức Anna hiểu rõ bọn chúng đang nghĩ gì. Cô sẽ trở thành món mồi ngon của chúng. Anna đạp mạnh chân ga đến mức xe của cô đâm vào chiếc đại xa phía sau vừa lúc gã lái xe bật đèn pha lên. Cô gài trở lại số một, cũng là lúc chiếc xe tải phía trước nổ máy và xả một luồng khói đen kịt vào kính xe cô. Anna đánh mạnh tay lái xoay một vòng và lại đạp mạnh vào chân ga. Chiếc xe tải nhỏ của cô nhảy về phía trước, vừa lúc chiếc đại xa phía trước xe cô bắt đầu lùi. Xe cô đâm vào chắn bùn bánh trước của chiếc đại xa, và thanh ba đờ sốc cùng chắn bùn bánh trước của xe cô bị xé toạc. Rồi cô cảm thấy mình bị xô mạnh từ phía sau khi chiếc đại xa còn lại đâm mạnh vào đít xe cô và làm bật thanh ba đờ sốc phía sau. Chiếc xe tải nhỏ của cô lao ra khỏi khe trống trong gang tấc và xoay tròn đủ ba trăm sáu mươi độ trước khi dừng lại. Anna nhìn sang bên vừa khi hai chiếc đại xa, vì không phản ứng kịp, đâm sầm vào nhau.

Cô tăng tốc cho xe chạy qua bãi đỗ, vượt qua một vài chiếc xe tải khác và lao lên xa lộ. Cô nhìn vào gương chiếu hậu và thấy hai chiếc đại xa đang xoay xở để thoát khỏi nhau. Một tiếng phanh rít lên cùng một loạt tiếng còi cất lên giận dữ khi cô suýt lao vào một dòng xe đang chạy trên đường. Người tài xế trên chiếc xe đầu tiên ấn còi rất lâu để Anna hiểu rõ thái độ của anh ta. Anna vẫy vẫy tay thể hiện thái độ biết lỗi khi chiếc xe đó vượt qua cô, nhưng mắt cô vẫn không rời gương chiếu hậu; cô chỉ sợ lại trông thấy hai chiếc đại xa kia đuổi theo. Anna đạp mạnh chân ga cho đến khi nó chạm sát sàn xe; cô quyết tâm thử xem chiếc xe có thể chạy với vận tốc tối đa là bao nhiêu. Sáu mươi tám dặm một giờ là câu trả lời.

Anna nhìn vào gương biên. Một chiếc đại xa mười tám bánh đang gần đuổi kịp cô trên làn xe bên cạnh. Cô giữ vững tay lái và đạp mạnh chân ga hơn nữa, nhưng chiếc xe của cô không thể cố hơn. Chiếc đại xa phía sau đang mỗi lúc tiến lại gần hơn, từng mét một và cô biết chẳng mấy chốc nữa nó sẽ biến thành một chiếc xe ủi. Anna ấn mạnh lòng bàn tay trái lên còi, nhưng nó chỉ phát ra những tiếng kêu khò khè chẳng đủ để doạ mấy con sáo trong tổ. Một tấm biển lớn xuất hiện bên vệ đường; nó cho biết còn một dặm nữa là đến điểm rẽ vào đường I-90.

Anna đánh xe sang làn đường ở giữa và chiếc đại xa bám theo cô như một cục nam châm. Chiếc xe giờ đã gần tới mức Anna có thể trông thấy rõ gã tài xế trên xe. Một cái cười trơ lợi và tiếp theo là tiếng còi bấm liên hồi đuổi theo cô.

Một tấm biển khác hiện ra cho biết rằng chỉ còn nửa dặm nữa là tới chỗ rẽ. Cô cho xe chạy vào làn tốc độ cao, khiến cho một loạt xe đang lao lên phải phanh gấp và chạy chậm lại. Còi lại vang lên liên hồi, nhưng cô phớt lờ và giảm tốc độ xuống còn 50, và những tiếng còi giờ đã trở thành một dàn hợp xướng.

Chiếc đại xa mười tám bánh vượt lên và chạy song song với xe cô. Cô giảm tốc độ, chiếc xe kia cũng giảm tốc độ; còn một phần tư dặm nữa, một tấm biển khác cho biết. Cô nhìn thấy chỗ rẽ phía xa xa và thầm cảm ơn Chúa khi những tia nắng đầu tiên hiện ra sau những đám mây, bởi vì giờ đây không một chiếc đèn nào trên xe cô còn hoạt động.

Anna biết cô chỉ có một cơ hội duy nhất và cô phải chọn thời điểm thật chuẩn xác. Cô nắm chặt tay lái khi tới chỗ rẽ vào đường I-90 và cho xe lao qua bãi cỏ xanh hình tam giác ngăn cách hai xa lộ. Rồi cô thình lình dậm mạnh chân ga, và dù chiếc xe của cô lần này không nhảy chồm về phía trước, nó chạy lên và tiến thêm được vài yard. Đã đủ chưa? Gã tài xế trên chiếc đại xa phản ứng ngay tức thì và cũng bắt đầu tăng tốc. Khi gã chỉ còn cách xe của cô một thân xe nữa, Anna thình lình đánh tay lái sang phải, trượt qua làn đường ở giữa và làn đường bên trong trước khi lao qua bờ cỏ. Chiếc xe của cô nhảy chồm chồm qua bãi cỏ mấp mô hình tam giác tới làn đường rẽ ngoài cùng. Một chiếc xe hơi đang chạy trên làn đường phía trong phải quặt tay lái để tránh đâm vào cô, trong khi một chiếc khác dạt ra phía ngoài. Khi Anna đã cho xe chạy ổn định ở làn đường trong cùng, cô nhìn sang bên và thấy chiếc đại xa mười tám bánh tiếp tục lao đi trên con đường cao tốc rồi mất hút.

Cô giảm tốc độ xuống còn 50 dặm một giờ, cho dù tim cô vẫn còn đập nhanh gấp ba lần bình thường. Cô cố gắng thư giãn. Cũng giống như đối với một vận động viên, tốc độ hồi phục là tối quan trọng. Rồi cô nhìn vào gương biên. Nhịp tim cô ngay lập tức tăng lên 150 khi cô trông thấy chiếc đại xa thứ hai đang đuổi theo.

Đồng bọn của gã bụng phệ đã không lặp lại sai lầm của bạn mình.

Jeffrey Archer

Ấn Tượng Sai Lầm

Chương 19

Khi người lạ mặt bước vào đại sảnh, Sam ngửng đầu lên nhìn ông ta từ phía sau bàn làm việc của mình. Làm một người gác cổng, ta phải có khả năng đưa ra những quyết định ngay tức thì về những con người bước vào toà nhà của ta. Cần phải đưa họ vào nhóm “Xin chào ngài” hay “Tôi có thể giúp được gì cho bà?” hay chỉ đơn giản là “Xin chào?” Sam nhìn kỹ người đàn ông cao lớn, trung tuổi vừa mới bước vào. Ông ta mặc một bộ complê hàng hiệu nhưng đã khá cũ, chỗ vải hai bên khuỷu tay đã mòn đến mức sáng bóng lên, và cổ ống tay áo sơ mi cũng đã bị mòn xơ ra. Ông ta đeo một chiếc caravát mà Sam nghĩ rằng đã được đeo đến lần thứ một nghìn.

“Xin chào ông”, Sam quyết định xếp ông ta vào nhóm này.

“Chào ông”, người đàn ông trả lời. “Tôi là người của Sở Nhập cư”.

Điều này làm Sam lo lắng. Cho dù ông sinh ra tại Harlem, ông nghe người ta nói rằng có một số người bị trục xuất do nhầm lẫn.

“Tôi có thể giúp gì cho ông?” Sam hỏi.

“Tôi kiểm tra danh sách những người vẫn còn mất tích, và được cho là đã chết, sau vụ tấn công khủng bố vào hôm thứ Ba”.

“Có cụ thể là ai không?” Sam hỏi một cách thận trọng.

“Có”, người đàn ông nói. Ông ta đặt chiếc cặp của mình lên mặt bàn, mở cặp và lấy ra một danh sách. Ông ta rê ngón tay dọc theo danh sách và dừng lại tại cái tên Ps. “Anna Petrescu”, ông ta nói. “Đây là địa chỉ cuối cùng của cô ta mà chúng tôi có”.

“Từ khi cô ấy đi làm vào sáng hôm thứ Ba tới nay, tôi chưa hề trông thấy cô ấy”, Sam nói, “cho dù có một số người khác cũng đã hỏi thăm về cô ấy, và một người bạn của cô ấy có đến lấy đi mấy thứ”.

“Cô ta lấy đi những gì?”

“Tôi không biết”, Sam nói. “Tôi chỉ nhận ra chiếc vali”.

“Ông có biết tên cô ta không?”

“Ông cần biết làm gì?”

“Có thể có ích nếu chúng ta liên lạc được với cô ta. Mẹ của Anna rất lo lắng”.

“Không, tôi không biết tên cô ta”, Sam thú nhận.

“Liệu ông có thể nhận ra cô ta nếu tôi đưa cho ông một tấm ảnh của cô ta không?”

“Có thể”, Sam đáp.

Một lần nữa, người đàn ông lại mở cặp ra. Lần này ông ta lấy ra một tấm ảnh rồi đưa cho Sam. Ông già nhìn kỹ tấm ảnh một lúc.

“Đúng, chính là cô ta. Một cô gái khá xinh”, ông già dừng lại, “nhưng không bằng Anna. Anna là một cô gái đẹp”.

Anna nhận thấy tốc độ tối đa theo quy định trên đường I-90 là 70 dặm một giờ. Cô sẽ rất sung sướng nếu được chạy quá tốc độ quy định, nhưng dù cô có đạp mạnh chân ga tới đâu, chiếc xe cũng không thể chạy quá tốc độ 68 dặm một giờ.

Cho dù chiếc đại xa kia còn cách cô khá xa, nó đang nhanh chóng rút ngắn khoảng cách, và lần này cô không có chiến lược thoát thân. Cô cầu Chúa cho một biển báo đường hiện ra. Khi chiếc xe tải chỉ còn cách cô khoảng 50 yard, và sắp đè nát cô, thì Anna nghe thấy tiếng hú của xe cảnh sát.

Cô thở phào nhẹ nhõm trước ý nghĩ mình sẽ bị cảnh sát giao thông chặn lại, và cô không quan tâm tới việc họ có tin lời cô hay không khi cô giải thích với họ lý do tại sao cô lại cho xe lao qua hai làn đường cao tốc và bờ dốc ngăn cách hai xa lộ, chưa nói đến chuyện tại sao xe của cô lại mất cả hai thanh ba đờ sốc, mất chắn bùn trước và không một chiếc đèn nào hoạt động. Cô vừa định cho xe giảm tốc độ thì thấy chiếc xe tuần tra của cảnh sát vượt lên qua chiếc đại xa và chạy ngay sau xe của cô. Viên sỹ quan thanh tra giao thông nhìn lại sau và ra hiệu cho gã tài xế trên chiếc đại xa cho xe dừng lại. Anna quan sát qua gương biên khi cả hai chiếc xe kia chạy chậm lại rồi dừng hẳn bên vệ đường.

Phải hơn một giờ sau cô mới lấy lại được bình tĩnh để không phải cứ chốc chốc lại nhìn vào gương biên.

Thêm một giờ nữa, Anna bắt đầu cảm thấy đói và cô cho xe dừng lại tại một quán cà phê bên đường để ăn sáng. Khi bước vào quán, cô chọn một chỗ ngồi ở góc trong. Cô đọc kỹ thực đơn trước khi gọi một suất “cỡ đại” – trứng, thịt muối, xúc xích, bành mỳ, bánh kếp, và cà phê. Không phải là suất ăn thông thường của cô, nhưng tất cả những gì vừa diễn ra trong bốn mươi tám giờ qua đều bất thường.

Vừa ăn, Anna vừa xem lại bản đồ. Hai gã say rượu kia đã giúp cô giữ đúng lịch trình. Anna tính rằng cô đã đi được 380 dặm, nhưng còn phải đi ít nhất là 50 dặm nữa thì cô mới tới được biên giới Canada. Cô xem tấm bản đồ kỹ hơn. Điểm dừng tiếp theo, Tháp Niagra và Anna tính rằng để tới đó cô cần phải mất thêm một giờ đồng hồ nữa.

Chiếc tivi phía sau quầy thu ngân đang đưa tin buổi sáng. Hy vọng tìm thấy thêm những người sống sót ngày càng tan biến. New York đã bắt đầu để tang những người thiệt mạng và bắt tay vào công việc dọn dẹp đầy khó khăn vất vả. Một buổi lễ tưởng niệm, có cả Tổng thống tham dự, sẽ được tổ chức ở Washington DC như là một phần của quốc tang. Tổng thống có dự định sẽ bay tới New York và thăm Bãi Trống. Tiếp theo là Thị trưởng Giuliana xuất hiện trên màn hình. Ông ta mặc một chiếc áo phông mang những chữ cái NYPD, và đội một chiếc mũ lưỡi trai có in những chữ cái NYFD một cách đầy tự hào. Ông ta ca ngợi tinh thần của người dân New York, và cam kết sẽ làm hết sức mình để thành phố có thể đứng dậy càng sớm càng tốt.

Lúc này hình ảnh sân bay JFK hiện ra, với một phát ngôn viên của sân bay khẳng định rằng những chuyến bay thương mại đầu tiên sẽ được cất cánh vào sáng hôm sau. Câu nói đó đã quyết định thời trình của Anna. Cô biết mình phải tới London trước khi Leapman có mặt ở đó nếu cô muốn có cơ hội thuyết phục Victoria… Anna liếc nhìn ra cửa sổ. Hai chiếc xe tải đang chạy vào bãi đỗ. Cô cứng người, và không dám nhìn khi hai người tài xế ra khỏi ca bin. Khi họ bước vào quán cũng là lúc cô đang nhìn quanh để tìm cửa thoát hiểm. Hai người tài xế ngồi ngay tại quầy tiếp tân, họ mỉm cười với cô hầu bàn và không thèm đưa mắt nhìn Anna. Trước kia cô chưa bao giờ hiểu tại sao lại có người mắc chứng hoang tưởng.

Anna nhìn đồng hồ: 7.55. Cô uống cạn cốc cà phê, để 6 đôla lên mặt bàn và bước lại buồng điện thoại công cộng ở góc xa trong quán. Cô quay số 212…

“Chào sếp, tôi là đặc vụ Roberts”.

“Xin chào, đặc vụ Roberts”, Jack vừa trả lời vừa ngả người ra sau ghế, “anh có gì để báo cáo không?”

“Tôi đang đứng ở một trạm dừng xe, một nơi nào đó giữa New York và biên giới Canada”.

“Và anh đang làm gì ở đó, đặc vụ Roberts?”

“Tôi đang cầm một thanh ba đờ sốc”.

“Để tôi đoán xem nhé”, Jack nói, “thanh ba đờ sốc ấy từng được gắn trên một chiếc xe tải nhỏ màu trắng do kẻ tình nghi lái”.

“Đúng thế, thưa sếp”.

“Thế chiếc xe bây giờ ở đâu?” Jack hỏi bằng một giọng cố tỏ ra bình tĩnh.

“Tôi không biết, thưa sếp. Khi kẻ tình nghi đánh xe vào trạm nghỉ, thú thật là tôi cũng chợp mắt một lát. Khi tôi tỉnh dậy, chiếc xe tải của kẻ tình nghi đã biến mất, chỉ còn lại thanh ba đờ sốc có gắn thiết bị định vị toàn cầu trên đó”.

“Vậy thì hoặc là cô ta quá khôn ngoan, hoặc là cô ta đã gặp tai nạn”, Jack nói.

“Chắc là thế”. Roberts dừng lại, rồi nói thêm, “Bây giờ tôi phải làm gì, sếp?”

“Đầu quân cho CIA”, Jack đáp.

“Xin chào, Vincent đây, có tin gì không?”

“Đúng như cậu tiên đoán, Ruth Parish đã cất bức tranh tại một phòng an toàn ở khu phi hải quan của sân bay”.

“Thế thì mình phải lấy nó ra”, Anna nói.

“Không dễ như thế đâu”, Tina nói, “bởi vì sáng mai Leapman sẽ bay đi London để lấy bức tranh, vì vậy cậu chỉ còn hai mươi tư giờ nữa trước khi ông ta bắt gặp cậu”. Chị ngập ngừng. “Và cậu gặp một khó khăn lớn”.

“Chuyện gì nữa thế?” Anna hỏi.

“Leapman không tin là cậu đã chết”.

“Tại sao ông ta lại nghĩ thế?”

“Bởi vì ông ta liên tục hỏi chuyện về cậu, vì vậy cậu phải hết sức cẩn thận. Đừng bao giờ quên phản ứng của Fenston khi Tháp Bắc sụp đổ. Dù hàng chục nhân viên của ông ta có thể vẫn còn mắc kẹt trong đó, thứ duy nhất ông ta quan tâm là tiền của ông ta. Chỉ có Chúa mới biết ông ta sẽ làm gì khi mất bức tranh Van Gogh đó. Những hoạ sỹ đã chết đối với ông ta còn quan trọng hơn tất cả những người còn sống”.

Anna có thể nhận thấy những giọt mồ hôi đang lăn trên trán mình khi cô gác ống nghe. Cô nhìn đồng hồ: ba mươi hai giây.

“Người bạn của chúng ta ở JFK thông báo đã thu xếp để chúng ta cất cánh vào lúc 7:30 sáng mai”, Leapman nói. “Nhưng tôi chưa báo cho Tina”.

“Vì sao chưa?” Fenston hỏi.

“Bởi vì ông già gác cổng tại chung cư của Petrescu cho biết một người trông giống Tina đã tới căn hộ của Petrescu vào tối hôm thứ Ba”.

“Tối thứ Ba?” Fenston nhắc lại. “Nhưng điều đó có nghĩa là -”

“Và cô ta lấy đi một chiếc vali”.

Fenston cau mày nhưng không nói gì.

“Ngài có muốn tôi làm gì đó không?”

“Ông đang có gì trong đầu?” Fenston hỏi.

“Đầu tiên là phải đặt máy nghe trộm trong phòng cô ta. Rồi nếu Petrescu liên lạc với cô ta, chúng ta sẽ biết rõ ả đang ở đâu và đang định làm gì”.

Fenston không trả lời, và điều đó đối với Leapman hàm nghĩa một sự đồng ý.

Biên giới Canada 4 dặm, một tấm biển bên đường thông báo. Anna mỉm cười – và nụ cười tắt ngấm ngay khi cô trông thấy một đoàn xe dài hút tầm mắt trước mặt mình.

Cô bước xuống đường và duỗi chân tay cho đỡ mỏi. Anna nhăn mặt khi nhìn lại chiếc xe tã nát của mình. Làm sao cô có thể giải thích với công ty Happy Hire? Cô không hề muốn phải mất thêm tiền cho chiếc xe cà tàng này – 500 đôla cho bất kỳ hỏng hóc đầu tiên nào, nếu cô nhớ không lầm. Trong khi vận động tay chân, Anna vẫn để ý thấy phía đường bên kia không có một ai. Dường như không còn ai dám đặt chân đến Mỹ.

Trong suốt hai mươi phút sau đó, Anna chỉ tiến thêm được 100 yard, và dừng lại trước một trạm xăng. Cô nhanh chóng đưa ra một quyết định – phá vỡ một thói quen lâu năm khác. Cô đánh xe qua đường tới sân trước trạm xăng, qua các máy bơm xăng, và đỗ chiếc xe lại bên một thân cây to, ngay phía sau một tấm biển đề dòng chữRửa Xe Siêu Hạng. Anna lấy vali và chiếc máy tính phía sau xe và bắt đầu đi bộ trên chặng đường dài bốn dặm từ đó tới biên giới.

Chương 20

“Bác thành thật xin lỗi”, Arnold Simpson vừa nói vừa nhìn Arabella Wentworth qua chiếc bàn làm việc của ông. “Một công việc khủng khiếp”, ông nói rồi bỏ thêm một cục đường vào cốc trà của mình. Arabella không nói gì, trong khi Simpson ngồi ngả về phía trước và đặt cả hai tay lên bàn như sắp cầu nguyện. Ông mỉm cười một cách hiền từ với vị khách hàng của mình và vừa chuẩn bị nói thì Arabella mở tập hồ sơ trong lòng ra và hỏi, “Với tư cách là một luật sư của gia đình cháu, có lẽ bác có thể giải thích cho cháu biết tại sao cha cháu và chị Victoria lại mắc nhiều nợ, trong một khoảng thời gian ngắn đến như vậy?”

Simpson ngồi ngả người ra rồi nhìn Arabella qua cặp kính hình bán nguyệt của ông. “Cha cháu và bác”, ông bắt đầu nói, “là bạn thân của nhau trong bốn mươi năm cho đến ngày cha cháu mất. Chắc là cháu biết, ông ấy và bác cùng học với nhau ở Eton”. Simpson dừng lời rồi đưa tay lên vuốt chiếc caravát màu xanh đậm mà dường như ông đã đeo nó hàng ngày kể từ khi rời khỏi ghế nhà trường.

“Cha cháu thường nói là “học cùng nhau” chứ không nói là “cùng học với nhau”, Arabella nói. “Vậy là có thể bác có câu trả lời cho câu hỏi của cháu”.

“Bác đang định nói về điều đó”, Simpson nói và nhìn quanh trên bàn. “A, đây rồi”, ông nói và cầm một tập hồ sơ có đề dòng chữ “Lloyd tại London” lên. Ông mở tập hồ sơ ra và sửa lại kính. “Khi cha cháu trở thành một cái tên tại Lloyd vào năm 1971, ông ấy đã làm cho rất nhiều nghiệp đoàn và sử dụng khu bất động sản này làm tài sản thế chấp. Trong nhiều năm, ngành bảo hiểm có thu nhập rất cao và hàng năm cha cháu kiếm được những khoản tiền rất lớn”. Simpson rê ngón tay trên một danh sách dài gồm toàn những con số.

“Nhưng bác có nói cho cha cháu biết”, Arabella hỏi, “về ý nghĩa của trách nhiệm hoàn trái vô hạn không?”

“Bác phải thú nhận là”, Simpson nói và không để ý đến câu hỏi ấy của Arabella, “cũng giống như bao nhiêu người khác, bác không hề nghĩ rằng lại phải chứng kiến những năm tháng tệ hại kéo dài chưa từng thấy như vậy”.

“Chẳng khác gì một kẻ đánh bạc hy vọng làm giàu từ vòng quay của bánh xe roulette”, Arabella nói. “Vậy tại sao bác không khuyên cha cháu cắt lỗ và rời khỏi bàn cờ bạc?”

“Cha cháu là một con người bướng bỉnh”, Simpson nói, “và sau khi đã trải qua nhiều năm tháng tồi tệ, vẫn tin rằng thời hoàng kim sẽ quay trở lại”.

“Nhưng đó không phải là tất cả mọi chuyện”, Arabella vừa nói vừa lật những trang hồ sơ.

“Đáng tiếc rằng đó chưa phải là tất cả mọi chuyện”, Simpson thừa nhận. Có vẻ như ông đang lún sâu hơn trên chiếc ghế và gần như biến mất sau cạnh bàn.

“Và chuyện gì đã xảy ra với danh mục những cổ phiếu mà gia đình cháu đã tích tụ trong suốt bao nhiêu năm qua?”

“Đó là những thứ đầu tiên mà cha cháu phải bán để cân đối tài khoản. Thực tế là”, vị luật sư gia đình lật sang một trang hồ sơ khác, “đến khi cha cháu mất, bác nghĩ rằng khoản thấu chi của ông ấy đã lên đến 10 triệu bảng”.

“Nhưng không phải với ngân hàng Coutts”, Arabella nói, “bởi vì theo giấy tờ để lại thì khoảng ba năm trước cha cháu đã chuyển tài khoản sang một ngân hàng nhỏ ở New York gọi là ngân hàng Fenston Finance”.

“Đúng thế đấy, cháu ạ”, Simpson nói. “Thực tế là cho đến nay bác vẫn chưa biết bằng cách nào mà ngân hàng đó...”

“Chuyện đó đối với cháu không có gì là khó hiểu”, Arabella vừa nói vừa lấy từ tập hồ sơ ra một bức thư. “Rõ ràng là họ đã chọn cha cháu làm mục tiêu”.

“Nhưng bác vẫn không hiểu bằng cách nào mà họ biết”

“Họ chỉ cần đọc các trang tài chính. Người ta thông báo về những vấn đề của Lloyd hàng ngày, và tên của cha cháu thường xuyên xuất hiện, cùng với tên của một vài người khác, những người phải gắn số phận với những nghiệp đoàn bất hạnh”.

“Đó chỉ đơn thuần là suy diễn của cháu”, Simpson nói.

“Chỉ là bác không bao giờ nghĩ đến chuyện đó mà thôi”, Arabella nói. “Hoàn toàn không phải là suy diễn. Cháu lấy làm lạ là tại sao bác lại để chobạn thâncủa mình rời bỏ Coutts, một ngân hàng đã phục vụ gia đình suốt gần hai trăm năm, để làm ăn với một bọn vô lương tâm”.

Simpson đỏ mặt. “Có lẽ cháu đã nhiễm thói quen của mấy chính trị gia luôn dựa vào sự suy diễn”.

“Không, thưa bác”, Arabella trả lời. “Người chồng quá cố của cháu cũng được mời tham gia vào Lloyd. Người môi giới thuyết phục anh ấy rằng trang trại của chúng cháu đủ để bảo lãnh cho mọi khoản nợ nếu có và anh ấy đã tống ông ta ra cửa”.

Simpson không nói gì.

“Và bác có thể làm ơn cho cháu biết, với tư cách là cố vấn của Victoria, bằng cách nào mà chị ấy có thể làm cho khoản nợ đó tăng lên gấp đôi chỉ trong vòng một năm?”

“Không phải là lỗi của bác”, Simpson nói. “Cháu nên dành sự giận dữ của mình cho nhân viên thuế vụ, kẻ luôn đòi phần xôi thịt của mình”, Simpson vừa nói vừa tìm tập hồ sơ mang tên “Thuế Chết”. “A, đây rồi. Kho bạc sẽ được hưởng bốn mươi phần trăm những tài sản của người chết, trừ phi những tài sản đó được chuyển giao trực tiếp cho vợ hoặc chồng. Bác nghĩ là người chồng quá cố của cháu đã giải thích kỹ chuyện này với cháu. Tuy nhiên, bác đã cố gắng xoay xở và bác tự hào là phải rất khôn khéo mới làm được chuyện này, để đi đến một thoả thuận là nộp 11 triệu bảng cho thanh tra thuế vụ và Victoria đã rất hài lòng về sự thu xếp này”.

“Chị cháu là một phụ nữ không chồng ngây thơ chưa từng rời khỏi nhà mà không có cha đi cùng, một người phải đến lúc ba mươi tuổi mới có tài khoản riêng”, Arabella nói, “vậy mà bác vẫn để cho chị ấy tiếp tục ký hợp đồng với Fenston Finance, chính chuyện đó càng khiến chị ấy gánh thêm nhiều nợ nần”.

“Chỉ có cách đó, hoặc là đem bán đấu giá khu bất động sản”.

“Không phải thế”, Arabella nói. “Cháu chỉ cần gọi một cú điện thoại tới Lord Hindlip, chủ tịch hãng Christie, và ông ta cho cháu biết rằng bức tranh Van Gogh của gia đình cháu có thể bán được trên 30 triệu bảng nếu đem ra đấu giá”.

“Nhưng cha cháu không bao giờ chấp nhận bán bức tranh đó”.

“Khi bác chấp nhận khoản vay thứ hai, cha cháu đâu còn sống”, Arabella vặn lại. “Nhẽ ra bác đã phải khuyên chị cháu làm thế”.

“Bác không còn lựa chọn nào khác, theo những điều khoản ban đầu của hợp đồng”.

“Một hợp đồng mà bác là người chứng kiến và bác đã không đọc. Bởi vì không những bác chấp nhận trả lãi mười sáu phần trăm cho khoản tiền vay, mà bác còn đồng ý dùng bức Van Gogh làm tài sản thế chấp”.

“Nhưng lúc nào ta cũng có thể yêu cầu họ bán bức tranh ấy, và mọi chuyện sẽ được giải quyết”.

“Lại sai tiếp, bác Simpson ạ”, Arabella nói. “Nếu bác đã đọc hết hợp đồng, bác sẽ thấy rằng chuyện đó sẽ dẫn đến tranh chấp và sẽ được đưa ra xử ở New York. Cháu không tin rằng bác có thể thắng ở sân sau của Fenston Finance”.

“Cháu cũng không thể làm thế”, Simpson nói, “bởi vì -”

“Cháu là ruột thịt của chị Victoria”, Arabella nói.

“Nhưng không có di chúc cho thấy Victoria sẽ để lại gia sản cho ai”, Simpson nói to bằng một giọng bực tức.

“Đó là thứ mà bác đã cố xoay xở bằng khả năng tài tình của mình”.

“Bác và chị cháu lúc đó đã thảo luận về việc -”

“Hơi muộn”, Arabella nói. “Cháu đang phải đương đầu với một cuộc chiến pháp lý, với một kẻ bất lương nhưng có lợi thế về mặt pháp luật, nhờ công của bác”.

“Bác tự tin nói rằng”, Simpson vừa nói vừa một lần nữa đặt tay lên bàn như sắp cầu nguyện, “bác sẽ thu xếp chuyện này trong-”

“Cháu sẽ nói cho bác biết bác cần phải làm gì”, Arabella vừa nói vừa đứng lên. “Bác hãy gói tất cả những hồ sơ liên quan đến tài sản của gia đình cháu và chuyển tới Lâu đài Wentworth”. Arabella nhìn thẳng vào ông luật sư. “Và đồng thời, bác hãy gửi kèm theo đó hoá đơn thanh toán cho một giờ tư vấn quý báu cuối cùng của bác”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay