Nhiếp chính Ỷ Lan - Lịch sử
Nhiếp chính Ỷ Lan.
Lịch sử
Theo nguồn Hồn sử Việt - NXB Lao động- 2010.
Cô Tấm xứ Bắc - Ỷ Lan
Khi nhắc đến triều Lý, người ta không thể không nhắc đến cái tên Ỷ Lan. Bà là một người đàn bà nhiếp chính có tài trị nước của dân tộc. Tên thật là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay là Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội. Tương truyền, mẹ mất lúc mười hai tuổi, cha lấy vợ kế nên thân phận Ỷ Lan khổ như “cô Tấm trong truyện cổ tích”. Sử cũ có ghi: Ỷ Lan là cô Tấm trong truyện Tấm Cám nên đền thờ trên quê hương bà mang tên đền thờ Bà Tấm.
Giai thoại kể rằng, hồi đó vua Lý Thánh Tông đã bốn mươi tuổi vẫn chưa có con phải đi cầu tự. Lần đó, xa giá nhà vua đi đến chùa Dâu ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Ngồi trong kiệu gió vi vu, ông vén rèm nhìn phong cảnh nương dâu đồng quê hết sức hữu tình. Cảm thấy tâm hồn thư thái rất nhiều, ông bèn xuống kiệu đi dạo. Khi lững thững bước vào một nương dâu, khoan khoái hít thở không khí đồng nội, chợt ông nghe thấy tiếng hát trong trẻo, tinh nghịch cất lên:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Một đôi thức cỏ lai hàng tay ta
Tò mò, nhà vua bèn tiến về phía có tiếng hát và nhìn thấy một thôn nữ đang dựa người vào gốc cỏ lan, tay cầm liềm, miệng mấp máy theo điệu hát. Dáng nàng thon thả, màu nâu đất của chiếc áo vẫn không che được sức sống và vẻ đẹp tươi mới của nàng. Nhà vua đứng lặng người đi. Viên quan hầu cận vội tiến tới chỗ người con gái, khẽ bảo:
- Thiên tử đang đứng trước mặt nhà ngươi đó, sao không quỳ lạy đi!
Giật mình, cô gái thôn quê vội quỳ xuống khẽ tâu:
- Thần dân xin kính chào bệ hạ.
Nhà vua sực tỉnh. Ông lặng ngắm người thiếu nữ tay vẫn cầm nắm lá dâu đang quỳ lạy trước mặt khẽ hỏi:
- Vì sao chỉ có mình ngươi cặm cụi ở đây?
- Dạ, muôn tâu bệ hạ, cha mẹ thần sớm nay dạy thần hôm nay phải hái xong chỗ lá dâu ở ruộng này, thần lo công việc không xong nên không dám đi đâu.
Nhà vua khẽ gật đầu:
- Ra thế đấy! Thế tên ngươi là gì?
Cô gái chợt ngẩng lên, khuôn mặt xinh xắn yêu kiều, thoáng vẻ tinh nghịch:
- Dạ, tên thần là Khiết, nhưng mọi người vẫn quen gọi là Tâm ạ.
Vua cảm thấy vui vui. Ông nghĩ: “Cô thôn nữ này bạo đây. Từ xưa đến nay đâu có cô gái nào, được nhà vua hỏi đến lần đầu tiên lại dám nhìn ‘mặt rồng’như vậy?”
Sau buổi gặp mặt bất ngờ ấy, từ một cô thôn nữ có tiếng hát trong trẻo đắm say lòng người, cô gái nọ đã được vua vời vào cung hầu hạ - nơi biết bao cô gái con nhà quyền quý mơ ước.Ông xây dựng cho nàng một cung điện riêng (nay là đình Yên Thái, Hàng Gai, Hà Nội) và đặt tên là cung Ỷ Lan (đứng dựa gốc câylan) để kỉ niệm buổi gặp mặt ý nghĩa đó.
Khác với mọi hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được tình cảm của nhà vua, chỉ quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Nàng khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách. Chỉ trong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của nàng. Triều thần thầm khâm phục nàng là người có tài.
Một lần, vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước. Nàng vui vẻ trả lời:
- Muốn nước giàu dân mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa lành được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy nước Đại Việt sẽ vô địch.
Về kế sách gìn giữ "an ninh quốc gia" Đại Việt, nhà vua đã vô cùng ngạc nhiên từ những lời tâu của Ỷ Lan.
- Các bậc tiền vương xưa không sợ dân giàu, mà chỉ sợ nước không yên!
Giải đáp thắc mắc của vua, nàng nói:
- Tâu bệ hạ: giàu mà không yên thì lúa có đầy kho cũng không thể ngồi mà an hưởng được.
- Nhưng sự "không yên" có phải do sự "không giàu" mà ra đâu? Vua nói.
- Tâu bệ hạ, chẳng phải là sợ giàu mà là từ sự "muốn giàu". Người giàu lại muốn giàu thêm, người nghèo muốn thành giàu, thiên hạ ai chẳng muốn giàu, tính tham dục tự nhiên đã sẵn có trong lòng. Vì muốn giàu, kẻ này thì bất nhân tàn ác, kẻ kia lại sinh lòng phản trắc, xem nhẹ tình cốt nhục cha con anh em, họ đâu còn biết được lễ nghĩa, liêm sỉ là gì nữa.
- Vậy thì Trẫm phải làm gì đây?
- Tâu bệ hạ, nếu muốn giàu mà quên lễ nghĩa dân thì giàu, nước sẽ yếu. Xin bệ hạ đã thương dân như con thì nên có chung sự răn dạy rộng rãi bắt buộc với mọi người trong thiên hạ, chỉ khi nào từ quan đến dân đều biết trọng cách làm người hơn tham vọng làm giàu, biết kiềm chế lòng tham dục thì ngày ấy nước mới có kỷ cươngphép tắc, mới trở nên vững vàng được. Một bậc "minh quân" chính là phải kiềm chế được ý muốn làm giàu "vô hạn" của kẻ có chức có quyền, phải lo cho dân có cơm ăn áo mặc…
Năm Long Chương Thiên Tự thứ nhất (1066), Ỷ Lan sinh hoàng tử Càn Đức (vua Nhân Tông sau này). Nhà vua vui mừng liền lập Càn Đức là hoàng thái tử và phong Ỷ Lan làm thần phi.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đích thân chỉ huy quân đi đánh giặc Chiêm Thành. Trước khi đi, vua dặn dò và trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng năm đó, nước Đại Việt có trận lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách đúng đắn, thông minh, quyết định táo bạo của Nguyên phi Ỷ Lan mà loạn lạc được dẹp yên, dân đói được cứu sống. Dân biết ơn, đã tôn Ỷ Lan là Quan Âm nữ và lập đền thờ bà.
Lại nói chuyện vua đánh giặc lâu không thắng, bèn trao lại quyền binh cho Lý Thường Kiệt, rồi đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến Châu Cừ (nay thuộc Tiên Lữ -Hưng Yên), vua hay tin Ỷ Lan vẫn vững vàng đưa đất nước vượt qua nhiều khó khăn, giữ cảnh thanh bình thịnh trị. Nhà vua bỗng thấy hổ thẹn với nàng bèn đem quân quay trở lại quyết đánh cho kỳ thắng mới về.
- Năm 1072, vua Lý Thánh Tông đột ngột băng hà, triều chính không tránh khỏi rối ren. Khi đó, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành gạt bỏ Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Một thời gian sau (khoảng bốn tháng), với sự nỗ lực của Lý Thường Kiệt, khi đó là Thái Úy, mới đưa Thái tử Càn Đức (con đẻ của Ỷ Lan)lên làm vua; lúc đó Ỷ Lan lên làm Thái hậu Nhiếp chính. Khi danh đã chính, ngôi đã thuận, bàđã cùng với Lý Thường Kiệt lúc này lên chức Tể tướngnắm quyền điều hành, đưa nước Đại Việt trở lại ổn định và nhanh chóng thịnh cường.
- Năm Đinh Tỵ (1077), quân Tống phát binh sang xâm lược nước ta. Vì quốc gia, dân tộc, Hoàng hậu Nhiếp chính Ỷ Lan đã gạt bỏ hiềm khích cũ, đã vời Lý Đạo Thành khi đó ở Nghệ An về lại triều; phục chức Thái sư cho ông để ông cùng lo việc triều chính; giúp cho Tể tướng Lý Thường Kiệt chuyên tâm lo đánh giặc. Nhờ vậy mà nước Đại Việt đã chiến thắng quân Tống hùng hổ tưởng đâu “làm cỏ” được nước ta. Có được chiến thắng này, phải nói rằng:công lao của Hoàng Thái hậu nhiếp chính Ỷ Lan là rất lớn.
Bên cạnh những việc triều chính đại sự, Ỷ Lan còn là một người rất sùng kính Phật giáo, và làm nhiều việc từ tâm giúp đỡ người nghèo.
Những năm cuối đời, Ỷ Lan phát tâm rất chăm đi lễ chùa và cúng tiến, tu bổ, xây dựng chùa chiền nhiều nơi. Người ta cho rằng từ sâu thẳm trong tâm hồn bà, có lẽ bà luôn day dứt về việc đã để Hoàng hậu Thượng Dương và bảy mươi hai thị nữ vào tội chết. Đến với đạo Phật, bà mong được thanh thản trong tâm hồn và cầu mong sẽ được tha thứ. Bảy mươi hai ngôi chùa do Ỷ Lan xây dựng thể hiện tấm lòng của bà với Hoàng hậu Thượng Dương và bảy mươi hai thị nữ vô tội.
Từ một cô Tấm xứ Kinh Bắc, trở thành một vị Nguyên phi được vua sủng ái, rồi sau trở thành Hoàng Thái hậu Nhiếp chính, Ỷ Lan đã có nhiều công lao đối với đất nước và dân chúng trong những thời khắc vận nước có nhiều biến đổi cũng như trong cuộc sống thời bình. Khi Ỷ Lan mất đi, dân chúng kính trọng và tưởng nhớ công ơn bà, đã xây chùa thờ bà ở nhiều nơi và phong bà là Phật Bà Quan Âm.
Khu di tích Đền thờ Nguyên Phi Ỷ Lan ngày nay ở cách Hà Nội 17 km, nằm ở quốc lộ 5 đi Hải Dương- Hải Phòng. Đền được xây dựng từ thế kỷ XI thờ bà ngay khi bà còn đang sống. Đềnvà chùa thờ bà còn có tên gọi là Đền “Bà Tấm”, chùa “Bà Tấm”, được xây dựng theo kiến trúc cung đình thời Lý, có 72 cửa, thuộc vào loại đền cổ nhất ở nước ta. Trong khu di tích này có bức tượngNguyên phi Ỷ Lan cao 9,1m, nặng 30 tấn được đúc bằng đồng nguyên chất năm 2010. Hàng năm cứ vào dịp từ 19 đến 21 tháng 2 âm lịch, nhân dân trong vùng và du khách thập phương lại hành hương về Dương Xá tham dự lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày Nguyên phi Ỷ Lan đăng quang và ngày 24, 25 tháng 7 âm lịch, ngày mất của bà.
Bí ẩn lịch sử
Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn lập ra triều đại mới và dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010. Sau khi ông mất, con trưởng là Lý Thái Tông (Lý Phật Mã [1028-1054]) lên ngôi. Vương triều nhà Lý tồn tại suốt 215 năm qua 9 đời vua trị vì. Đây là thời kì Đại Việt trở thành một quốc gia cường thịnh, ngoài đánh Tống, trong bình Chiêm ở thế kỷ XI- XII. Chỉ đến đời vua Lý Huệ Tông nhu nhược, bỏ bê chính sự khiến họ Trần nổi lên đoạt quyền cai trị đất nước.
- Lý Thánh Tông (1023-1072) húy là Lý Nhật Tôn lên ngôi năm 1054. Ông cho mở trường lập Văn Miếu tại Thăng Long thờ Khổng Tử dạy các Hoàng tử học. Tọa ngôi: 18 năm, ông mất khi thọ 50 tuổi.
- Lý Nhân Tông (1073-1127) tức Thái Tử Càn Đức là con trưởng của Lý Thánh Tông và bà Nguyên Phi Ỷ Lan. Lên ngôi Hoàng đế khi mới 7 tuổi năm 1072, nên việc triều chính đều do Nguyên Phi Ỷ Lan nhiếp chính. Trong buổi đầu Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của thái sư Lý Đạo Thành đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi bốn tháng sau, có thái úy Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan có cơ hội quay lại nắm quyền nhiếp chính. Là người hết sức cứng rắn, bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết và tìm cách điều Lý Đạo Thành ra Nghệ An. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến xem bà như bạo chúa, xóa sạch mọi công lao của bà đối với dân với nước mà quên mất rằng, trong sự nghiệp chính trị, chuyện đó thường thấy với các phe phái chống đối. Trong thời kì Lý Nhân Tông trị vì, đầu năm 1077, Quách Qúy và Triệu Tiết ở Trung Quốc dẫn 10 vạn quân xâm lược Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã chặn đứng đạo quân này tại phòng tuyến Sông Cầu không cho chúng vào Thăng Long, rồi phản công buộc giặc phải tháo chạy về nước, tổ quốc lại thái bình, dân chúng được an lạc. Lý Nhân Tông mất năm 1127, trị vì 56 năm, thọ 62 tuổi. Không có con nên chọn con của em trai mình là Sùng Hiền Hầu thừa kế.
Di tích đền thờ Nguyên Phi Ỷ Lan cách Hà Nội 17km nằm trên quốc lộ 5 đi Hải Dương. Đền xây dựng từ thế kỷ XI, thờ phụng bà ngay khi bà còn sống.
Đền kiến trúc theo lối cung đình thời Lý, có 72 cửa, thuộc loại cổ nhất nước ta. Điển hình có đôi sư tử điêu khắc bằng đá cao 1,2 m, rộng 1,36m, trong tư thế nằm phủ phục. Điều đặc biệt khác so với sư tử thờ ở các chùa chiền khác là đôi sư tử này đang ở tư thế vờn ngọc, trên trán có trổ chữ “Vương” khẳng định vị trí chúa tể muôn loài, bảo vệ vật báu của đất nước. Đây là một công trình nghệ thuật tuyệt tác, một hiện vật cổ quý hiếm ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, đền còn có hai khám cổ thời Mạc hiện tìm thấy, các mảng chạm trên khám như hoa lá, rồng phượng đều có giá trị về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam.
Đền và chùa “Bà Tấm” còn có một thành bậc bằng đá liền khối điêu khắc rồng lân thời Lý đang chạy xuống, dài 1,3 m, cao 0,8 m, nặng hàng chục tấn và nhóm tượng ba ông Tam thế ngồi trên đầu hai con sư tử trên cao 4m, tạc bằng khối đá tinh xảo, cũng là những hiện vật độc đáo đã trải qua gần 9 thế kỷ, còn lại đến ngày nay. Đặc biệt còn có đôi câu đối ở đền từ thời cổ xưa ghi rõ: “Thập bát tử, diêu phỏng thế tại tam truyền chiêu lệnh thục” – “Bách dư sở tự quán địa lưu cố trạch tối linh thanh”.
Tương truyền Nguyên Phi Ỷ Lan được tạc tượng rất đẹp, được thờ ở khán giữa chùa, hai bên cạnh là lục bộ. Khám bên ngoài là tượng thờ hai văn võ Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt. Trong đền còn có kiệu ông Hàng Dầu (thầy dạy Ỷ Lan) và kiệu thờ bài vị bà mẹ Nguyên Phi.
Bên tay phải đền còn có chùa Linh Nhân Tự do chính bà xây dựng, tất cả tạo thành một quần thể di tích đền chùa nổi bật một thời ngay trên chính quê hương bà.
Trích từ trang 187 - 193 trong Khám phá lịch sử qua truyền thuyết Hồn Sử Việt, nhà xuất bản Lao động.