Arsène Lupin - Sa bẫy địa ngục - Chương 03 phần 1
BA
Bóng kim đồng hồ
Một quý ông có bộ ria màu xám. Khoác một chiếc áo rơ-danh-gót màu hạt dẻ, đội chiếc mũ rộng vành bước vào nhà tôi, ông ta nói ngay:
- Nhận được bức điện tín của ông, tôi vội vàng đến đây. Có chuyện gì thế?
Nếu tôi không chờ Arsène Lupin thì chắc là không nhận ra anh ta dưới dáng vóc người lính già hưu trí đó.
- Chuyện gì à? Tôi đáp lại – Ôi, chẳng có gì lớn lắm đâu, một sự trùng hợp khá kì quặc thôi. Anh vui lòng làm sáng tỏ giúp những việc bí ẩn như thế này giùm tôi chứ!
- Làm sao?
- Anh phải khẩn trương đấy.
- Quá đúng, nếu công việc anh nói không đáng gì sao tôi lại phải bận tâm đấy. Thôi nào, thẳng vào việc đi!
- Thẳng vào việc à? Thì nào, anh bắt đầu nhé! Tôi yêu cầu anh ngó qua bức tranh nhỏ này. Tuần lễ trước tôi đã phát hiện trong một cửa hàng đầy bụi ở tả ngạn, tôi đã mua để lồng vào chiếc khung trang trí bằng hình hai lá cọ... Một bức tranh tồi.
- Rất tồi, quả thế - Một lát sau Lupin nói - nhưng đề tài thì tự nó không thiếu ý vị đâu... Cái góc này của mảnh sân cũ với cái đình tròn này có hàng cột kiểu Hy Lạp, chiếc đồng hồ mặt trời đây và cái bể với giếng thời Phục hưng mái sụt, các bậc lên xuống và chiếc ghế dài bằng đá của nó kia. Tất cả đều đẹp.
- Và xác thực - Tôi nói thêm – Tấm vải che, tốt hay xấu chưa bao giờ vén lên khỏi cái khung. Vả lại ngày tháng đánh dấu còn đây... Này, ở phía dưới, bên trái, những chữ số màu đỏ, 15 - 4 - 2, dĩ nhiên có nghĩa là 15 tháng tư 1802.
- Quả thế... quả thế.. Nhưng anh nói đến sự trùng hợp mà cho đến lúc này, tôi chẳng nhận thấy..
Tôi lấy một chiếc ống nhòm trong góc ra lắp trên một cái giá ba chân và tôi chĩa về phía cửa sổ mở toang của một gian phòng đối diện với căn hộ của tôi ở phía bên kia đường phố. Rồi tôi đề nghị Lupin nhìn vào.
Anh khom người. Mặt trời, ở giờ này chiếu xiên vào gian phòng, trong đấy người ta nhìn thấy bàn ghế, đồ gỗ màu gụ rất đơn sơ, một chiếc giường lớn của trẻ em có rèm che bằng vải cờ- rờ-ton.
- Ồ! – Bất thình lình Lupin nói - cùng một bức tranh như thế!
- Đúng, cũng như thế! Tôi khẳng định - và ngày, tháng - Anh xem ngày tháng bằng chữ đỏ đấy chứ? 15- 4-2.
- Ừ, tôi thấy... và ai ở trong phòng ấy?
- Một là người đàn bà... hay đúng hơn là một nữ lao công, buộc phải làm việc để kiếm sống... những việc khâu vá mới nuôi sống chị ta và đứa con của chị.
- Tên chị ấy là gì?
- Louise d’Ernemont... Theo tôi biết thì chị ấy là chắt của một đại điền chủ bị lên máy chém dưới chế độ khủng bố.
- Cùng ngày với André Chénier - Lupin kết luận. - Theo kí ức thời gian thì ngài Ernemont ấy rất giàu có.
Anh ngửng đầu lên để hỏi tôi:
- Câu chuyện lý thú đây... Tại sao anh lại chờ đến giờ mới kể cho tôi nghe?
- Bởi vì ngày hôm nay là mười lăm tháng tư.
- Thế nào?
- Thế này, từ ngày hôm qua tôi biết - nhờ chuyện bép xép của người gác cổng ấy mà - thì ngày 15 tháng tư chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của Louise d’Ernemont.
- Không thể thế được!
- Trái với những thói quen của mình là ngày nào chị ấy cũng làm việc sắp xếp trật tự hai gian phòng trong căn hộ của chị, chuẩn bị bữa ăn trưa cho đứa con gái đi học ở trường làng về... thì ngày 15 tháng tư chị lại cùng con gái ra đi lúc mười giờ cho đến sẩm tối mới về. Việc đó đã nhiều năm dù thời tiết như thế nào cũng thế. Anh phải thừa nhận điều ấy là lạ thường. Cái ngày tháng mà tôi thấy ghi trên một bức tranh cũ tương tự, quy định việc ra đi định kì hàng năm của người chắt của nhà đại điền chủ d’Ernemont là bất di bất dịch.
- Lạ đấy... anh nói có lý - Lupin chậm rãi tuyên bố - không ai biết được là chị ấy đi đâu à?
- Người ta mù tịt. Chị ta chẳng thố lộ cho ai hay. Vả lại chị ấy cũng ít nói nữa.
- Anh có chắc những thông tin của anh đưa ra là đúng không?
- Hoàn toàn như thế và có những bằng chứng để nói rằng những tin ấy là chính xác. Đấy là...
Một cánh cửa mở ra phía trước cho đứa bé gái độ bảy tám tuổi ra đứng cửa sổ. Sau đấy một người đàn bà hiện ra đằng sau nó, khá cao, còn đẹp, có vẻ dịu dàng và sầu muộn. Cả hai đã sẵn sàng; trang phục giản dị, nhưng ở người mẹ tỏ ra có lo lắng và vẻ lo âu.
Tôi nói thầm.
- Anh xem, họ sẽ ra đấy.
Quả vậy, sau một lát người mẹ nắm lấy tay con, rời khỏi căn phòng.
Lupin cầm mũ:
- Đi chứ?
Một sự tò mò rất mãnh liệt lôi kéo tôi làm cho tôi không thể từ chối. Tôi bước xuống cùng Lupin.
Vừa ra đến đường phố, chúng tôi nhìn thấy người nữ láng giềng của tôi bước vào một hiệu bán bánh mì. Chị mua hai chiếc bánh đặt vào chiếc làn con của đứa bé, trong đó có lẽ đã có các thức ăn khác. Rồi cả hai người đi về phía đại lộ, thẳng đến quảng trường Ngôi Sao. Đại lộ Kléber dẫn họ đến lối vào đường Passy.
Lupin lặng lẽ bước đi với một sự lo toan dễ thấy. Còn tôi, tôi vui mừng là đã lôi kéo được sự quan tâm của anh. Thỉnh thoảng chỉ một lời nói của anh cũng đã bộc lộ cho tôi biết được dòng suy nghĩ của anh và tôi có thể nhận thấy được ẩn số hãy còn nguyên vẹn chua hé mở đối với anh cũng như với tôi.
Nhưng Louise d’Ernemont rẽ xiên sang trái vào phố Raynouard, một phố cũ yên tĩnh, nơi Franklin và Balzac đã từng sống và nó được viền quanh bằng những ngôi nhà cổ và những căn vườn kín đáo làm cho ta có cảm giác như ở một tỉnh lẻ. Dưới chân sườn đồi của phố cũ nổi trội lên ấy là con sông Seine chảy qua và những con đường hẹp đổ xuống tận bờ.
Chính một trong những con đường hẹp và ngoằn ngoèo, và náo động ấy, người nữ láng giềng của tôi đã men xuống. Đầu tiên ở mé phải có một ngôi nhà, mặt trước quay ra phố Raynouard, rồi lại một bức tường mốc meo với độ cao thường gặp, có bó trụ và cắm mảnh chai tua tủa.
Đến chỗ giữa, một cái cửa tháp hình vòm cuốn trổ qua tường. Luise d’ Ernemont dừng lại ở đấy, mở ra bằng một chiếc chìa khóa rất lớn. Người mẹ và đứa con gái bước vào.
Lupin nói với tôi:
- Dù sao, người đàn bà ấy chẳng có gì che giấu cả, vì chị ta không quay lại lần nào...
Anh vừa nói xong thì có tiếng chân bước phía sau chúng tôi. Hai người hành khất già, một nam một nữ rách rưới, bẩn thỉu, quần áo vá chằng như tổ đĩa đi qua không hề chú ý đến sự có mặt của chúng tôi. Người đàn ông móc tay vào chiếc đãy của mình lấy ra một chiếc chìa khóa giống hệt như chìa khóa của cô láng giềng của tôi, rồi tra vào ổ. Cánh cổng đóng lại sau lưng họ.
Ngay lập tức, cuối con đường hẹp, có tiếng ô tô xịch đỗ lại. Lupin kéo tôi đi xuống thấp hơn năm mươi mét vào một chỗ hẻm vừa đủ cho chúng tôi ẩn náu. Rồi chúng tôi nhìn thấy một phụ nữ duyên dáng đeo đầy đồ nữ trang, bế một con chó con trên tay, đang đi xuống. Người đàn bà ấy có cặp mắt đen lánh, cặp môi quá mọng đỏ và làn tóc quá hoe vàng. Khi đến trước cửa, vẫn cùng một thao tác, cùng một chiếc chìa khóa như vậy... Nàng và con chó con biến mất.
- Sự thể bắt đầu trở nên vui nhộn đấy - Lupin cười khẩy - có thể những con người kia có sự trùng hợp nào đấy và có mối liên quan với nhau giữa người này với người khác chăng?
Lại lần lượt hiện ra hai người đàn bà đã có tuổi gầy còm, dáng vẻ trông khốn khổ và giống nhau như hai chị em ruột, rồi đến một người hầu phòng và một viên hạ sĩ lục quân, rồi một ông to lớn mặc áo ra-két vá và bẩn, rồi một gia đình thợ thuyền, tất cả đều xanh xao, ốm yếu, có vẻ như những con người không được ăn uống khi đói lòng. Những người mới đến, ai nấy đều có một cái làn hay một cái túi lưới mang theo đựng thức ăn.
- Đúng là một buồi pic nic - tôi kêu lên.
- Mỗi lúc một lạ lùng thật - Lupin nói - và tôi chỉ yên trí khi nào biết rõ điều gì xảy ra sau bức tường này.
Trèo lên tường, điều đó không thể được. Mặt khác chúng tôi thấy ở dưới tháp của con đường hẹp cũng như trên cao, dẫn đến hai ngôi nhà thì không có một cửa sổ nào mở ra phía tường vây quanh.
Chúng tôi cố tìm một cái mẹo nhỏ khi bất thình lình cánh cửa xịch mở cho một đứa con của người lao động ùa ra. Thằng bé chạy lên tận phố Raynouard. Sau vài phút nó trở về xách hai chai nước, đặt xuống đất để móc túi lấy ra chiếc chìa khóa to tướng.
Lúc này Lupin đã rời khỏi tôi và đi chậm từng bước dọc theo bức tường như một người đang đi dạo. Sau khi đứa trẻ vào trong tường vây, đẩy cánh cửa lại, anh nhảy đến rồi cắm mũi dao vào trong lẫy ổ khoá. Khi then khóa không còn bị kìm giữ nữa, một lực nhẹ đủ để cánh cửa hé mở. Lupin nói:
- Thế là xong.
Anh thận trọng chui đầu vào, rồi trước sự ngạc nhiên của tôi, anh đã hoàn toàn lách cả người vào được. Tôi làm theo anh và đã nhận ra cách mười mét sau bức tường là một lùm cây thắng vút lên như một tấm màn che, cho phép chúng tôi tiến lên mà không bị phát hiện.
Lupin đứng giữa lùm cây. Tôi đến gần và cũng như anh, rẽ cành của một cây thắng. Thế là cảnh tượng bày ra trước mắt tôi hết sức bất ngờ, đến nỗi tôi không kìm giữ được một tiếng thốt lên. Trong khi đó, về phần mình Lupin đã chửi thề qua kẽ răng:
- Mẹ kiếp! Thật buồn cười.
Chúng tôi đã có trước mặt trong một không gian thu hẹp kéo dài ra giữa hai ngôi nhà không có cửa sổ, cảnh bài trí cũng giống hệt bức tranh cổ mà tôi đã mua ở một người bán sách cũ.
Cùng cảnh bài trí ấy thực ra, sát với bức tường thứ hai, cũng cái đình tròn kiểu Hy Lạp như vậy, phô ra hàng cột mảnh của nó. Chính giữa, cũng những chiếc ghế dài bằng đá cao hơn hẳn cái vòng tròn bốn bậc kéo xuống tận một cái bể có hai tấm lát mốc meo. Ở bên trái cũng một cái giếng như thế có mái phía trên bằng thép, trau chuốt công phu. Rồi rất gần, cũng cái đồng hồ mặt trời để lộ mũi tên theo kiểu của nó và cái mặt đá cẩm thạch.
Cũng cảnh bài trí ấy. Và điều lạ lùng hơn của cảnh tượng ấy là kí ức về thời gian ngày 15 tháng tư, và đấy là ý niệm về cái ngày chính xác ấy, chúng tôi đã có mặt đúng vào ngày 15 tháng tư và có từ mười sáu đến mười tám con người rất khác nhau về tuổi tác, về thân phận và về phong cách đã chọn ngày 15 tháng tư để tụ tập lại ở cái xó hẻo lánh này của Paris.
Tất cả, ở cái giây phút mà chúng tôi trông thấy, bọn họ ngồi thành từng nhóm riêng biệt trên những chiếc ghế dài và những bậc tam cấp, đang ăn uống. Gần với người láng giềng của tôi và đứa con gái của chị là gia đình những người lao công và hai người ăn mày hợp lại trong khi đó người hầu phòng và người đàn ông mặc áo ra-két cáu bẩn, người hạ sĩ lục quân và hai chị em gầy còm tập trung những lát thịt giăm bông, những hộp cá tầm và phô-mát của họ lại.
Bấy giờ đã là một giờ mười phút. Người ăn mày cũng như người đàn ông bắt đầu hút thuốc gần cái đình nóc tròn và những người đàn bà đến gặp họ. Kể ra những người ấy có vẻ quen biết nhau.
Họ ở khá xa chúng tôi đến mức chúng tôi không nghe được lời nói của họ. Tuy vậy chúng tôi thấy được cuộc chuyện trò của họ trở nên sôi nổi. Nhất là cô gái có con chó con lúc này được nhiều người săn đón, nói dông dài và làm những cử chỉ khích động con chó con để làm cho nó sủa lên dữ dội.
Nhưng bỗng nhiên có một tiếng thét và ngay lập tức những tiếng kêu la giận dữ, rồi tất cả, đàn ông và đàn bà hỗn loạn chạy đến cái giếng. Ngay lúc ấy một thằng bé con của người lao công từ đấy trồi lên, thắt lưng bị móc vào một cái móc sắt buộc ở cuối một sợi dây thừng. Ba thằng nhóc khác quay tay kéo nó lên. Người hạ sĩ nhanh nhẹn lao đến và ngay lập tức người đàn ông to lớn và người hầu phòng nắm lấy nó, trong khi đó những người ăn xin và người chị em gầy còm đánh nhau với cặp vợ chồng lao công.
Trong vài giây không còn lại một chiếc áo sơ mi cho thằng bé. Chủ của quần áo, người hầu phòng chạy đến, bị người hạ sĩ đuổi theo giật mất chiếc quần cụt và chiếc quần lại bị một trong hai chị em gầy còm chiếm lại từ người hạ sĩ.
Tôi hoàn toàn ngơ ngác, thầm thốt lên:
- Chúng nó điên rồ hết cả rồi.
- Không đâu, không đâu - Lupin nói.
- Sao thế? Anh hiểu được điều gì trong việc này à?
Cuối cùng, sau một lát bàn cãi, Louise d’Ernemont tự cho mình là người hòa giải đã làm dịu được cơn náo loạn. Người ta lại ngồi xuống, nhưng có một sự phản ứng ở tất cả những con người bực dọc ấy, vì họ đã ngồi im và ít nói giống như căng thẳng, mệt nhoài.
Và thời gian trôi đi, sốt ruột và bắt đầu cồn cào vì đói, tôi phải ra ngoài tìm thức ăn tận phố Raynouard. Chúng tôi vừa chia nhau ăn vừa theo dõi từng diễn viên hài kịch khó hiểu đang trình diễn trước mắt chúng tôi. Mỗi phút dường như đè nặng lên bọn họ một nỗi buồn lớn dần lên và bọn họ có những thái độ nản lòng mỗi lúc một còng lưng xuống, mải mê trong trầm ngâm, im lặng.
- Họ sẽ ngủ lại ở đây à? - Tôi thốt lên chán nản.
Nhưng mãi đến năm giờ, người đàn ông to cao mặc áo rakét cáu bẩn rút đồng hồ quả quýt ra. Người ta bắt chước ông và tất cả những chiếc đồng hồ của họ đã ở trong bàn tay. Họ có vẻ như lo âu chờ đợi một kết quả vô cùng quan trọng đối với họ. Sự việc không xảy ra bởi vì sau mười lăm, hai mươi phút người đàn ông cao lớn có một cử chỉ thất vọng, đã đứng lên và đội mũ.
Bấy giờ những tiếng khóc nổi lên. Hai người chị em gầy còm và vợ của người lao công quỳ xuống làm dấu thánh. Cô gái có con chó và người đàn bà ăn xin ôm nhau khóc sướt mướt; chúng tôi bắt gặp Louise d’Ernemont siết chặt con gái vào lòng với một cử chỉ buồn rầu.
- Chúng ta đi thôi - Lupin nói.
- Anh tin là buổi diễn này xong rồi à?
- Ừ và chúng ta chỉ có thì giờ để chuồn khỏi đây.
Chúng tôi ra đi không có trở ngại gì. Trên cao của đường phố Raynouard, Lupin quay sang bên trái để tôi ở ngoài, anh bước vào ngôi nhà đầu tiên, ngôi nhà cao hơn khu có tường vây.
Sau một lát nói chuyện với người gác cổng, anh gặp lại tôi và chúng tôi chận một chiếc ô tô bắt nó dừng lại.
- 34 phố Turin - anh nói với người lái xe.
Ở số 34 của phố này, tầng trệt là văn phòng của công chứng viên và hầu như ngay lúc ấy chúng tôi được dẫn vào phòng làm việc của thầy Valandier, một người đàn ông đứng tuổi, nhã nhặn và tươi vui...
Lupin tự giới thiệu với cái tên là đại uý nghỉ hưu Janniot, ông muốn tậu đất xây một ngôi nhà vừa ý và người ta đã nói với ông về một mảnh đất gần phố Raynouard
- Nhưng mảnh đất ấy không bán! - Thầy Valandier kêu lên.
- Ồ, người ta đã nói với tôi...
- Không, tuyệt nhiên không. - Người công chứng viên đứng dậy và lấy một đồ vật trong tủ ra, đưa cho chúng tôi xem. Tôi ngạc nhiên. Đấy cũng chính là bức tranh mà tôi đã mua và cũng là bức tranh như ở nhà Louise d’Ernemont.
- Nó có quan hệ đến mảnh đất mà bức tranh vải này thể hiện, bức tranh d’ Ernemont như người ta thường gọi phải không?
- Đúng thế. - Người công chứng viên lại nói:
- Ờ, mảnh đất rào kín ở trong một khu vườn thuộc quyền sở hữu của người đại điền chủ d’Ernemont bị hành quyết dưới chế độ khủng bố (thời Cách mạng). Tất cả những cái có thể bán được thì những người thừa kế đã bán dần. Nhưng mảnh cuối cùng này thì để lại và sẽ để lại làm của chung. Nếu không thì...
Người công chứng viên bắt đầu cười.
- Nếu không thì thế nào? Lupin hỏi.
- Đấy là toàn bộ một câu chuyện khá lạ lùng, vả lại, từ đó đôi khi tôi lấy làm vui thú đọc tập hồ sơ dày cộp này đây.
- Liệu có tò mò không đây?
- Không chút nào, - thầy Valandier tuyên bố.
Có vẻ như ông rất vui, trái với việc sắp xếp câu chuyện ông kể. Rồi không để chúng tôi đề nghị, ông bắt đầu:
- Ngay từ lúc đầu cuộc cách mạng, Louis Agrippa d’Ernemont với cái cớ trở về gặp vợ và con gái Pauline của họ ở Geneve, ông đã đóng cửa khách sạn của mình ở ngoại ô Saint-Germain, thải hồi đầy tớ rồi cùng con trai là Chalers và bà giúp việc trung thành đến ở ngôi nhà nhỏ của mình ở Passy, nơi không ai quen biết ông cả. Ông giấu mình ở đấy suốt ba năm và ông có thể hi vọng việc ẩn cư của mình sẽ không bị phát hiện. Cho đến một hôm, sau bữa cơm, ông đang ngủ trưa thì bà đầy tớ già vội vàng bước vào phòng ông thông báo cho ông rằng bà nhác thấy một tốp tuần tra vũ trang ở cuối phố, hình như đang hướng về ngôi nhà nhỏ. Louis d’Ernemont khẩn trương chuẩn bị thì ngay lập tức bọn người có súng ống ập đến đập cửa, ông đã nhanh chóng ra cửa thông ra vườn và gọi con trai của ông bằng giọng hốt hoảng:
- Giữ chúng nó lại... chỉ cần trong năm phút…
- Ba định trốn ư? Ba có trông thấy các lối thoát của căn vườn đã bị canh gác không?
Bảy tám phút sau ông ta trở lại, rất bình tĩnh trả lời các câu hỏi và không gây một trở ngại nào để đi theo những người đàn ông đó. Charles, con trai của ông mặc dù chỉ mười tám tuổi cũng bị dẫn đi.
- Việc ấy đã xảy ra? - Lupin hỏi.
- Việc ấy xảy ra ngày 26 tháng nảy mầm năm thứ II, có nghĩa là ngày...
Thầy Valatidier dừng lại, mắt liếc về phía tấm lịch treo tường, rồi ông kêu lên:
- Nhưng chính xác là ngày hôm nay. Chúng ta đang là ngày 15 tháng tư, ngày kỉ niệm người đại điền chủ bị bắt.
- Sự trùng hợp lạ lùng - Lupin nói - và sự bắt giữ này xét về thời đại có những hậu quả nghiêm trọng ư?
- Ồ khá nghiêm trọng - người công chứng viên cười - ba tháng sau, bắt đầu vào tháng Thermidor, người con trai của ông đang ngồi tù và tài sản của họ bị tịch thu hết.
- Tài sản lớn lắm phải không? - Lupin hỏi.
- Thế đấy! Chính xác là từ đấy sự việc trở nên phức tạp. Quả vậy, tài sản của ông ta rất lớn nhưng tịch thu không được bao nhiêu. Người ta nhận thấy rằng tòa nhà ở ngoại thành Saint-Germain, tài sản biết rõ nhất trước cách mạng đã bán cho một người Anh cùng với các lâu đài và đất đai ở tỉnh cũng như tất cả đồ nữ trang, cổ phiếu và các bộ sưu tập của nhà đại điền chủ. Tòa đốc chính xếp những cuộc điều tra tỉ mỉ, nhưng không đạt được một kết quả nào. Không tìm thấy dấu vết của những món tài sản đó.
- Ít ra cũng còn lại được ngôi nhà ở Passy chứ? - Lupin nói.
- Ngôi nhà ở Passy đã bán với giá rẻ như bèo cho chính người đại diện của công xã, người đã bắt d’Ernemont; đó là Công dân Broquet. Công dân Broquet ở trong nhà, đóng hết cửa lại ngáng hết cửa đi, gia cố tường vách và cuối cùng khi Charles d’Ernemont được tự do, trình diện để đòi nhà thì ông ta đã đón tiếp bằng báng súng. Charles đệ đơn kiện, thua cuộc nên phải cam đoan một số tiền lớn. Tay Công dân rất khó chơi, đã mua ngôi nhà và có thể giữ ngôi nhà ấy cho đến khi chết nếu Charles không được chỗ dựa của Bonaparte. Ngày 12 tháng hai năm 1803 Công dân Broquet bỏ nhà cửa ra di. Charles vui mừng đến nỗi vừa đi đến thềm của ngôi nhà mới giành lại được chưa kịp mở cửa, đã bắt đầu nhảy múa và ca hát. Có lẽ trí óc của ông ta đã bị đảo lộn dữ dội bởi tất cả những thử thách ấy, ông ta đã hóa điên
Lupin cằn nhằn:
- Quái thật! Rồi ông ta ra sao?
- Mẹ và chị Pauline của ông ta đã lấy chồng là người anh họ con cậu ở Genève - cả hai đã chết; bà đầy tớ già nhận trách nhiệm chăm sóc ông và họ cùng sống trong ngôi nhà Passy. Nhiều năm trôi qua, không có biến cố nào đáng kể, nhưng bỗng dưng năm 1812, một chuyển biến bất ngờ xảy ra. Ở cạnh giường ông Charles nằm chết, bà đầy tớ già đã tiết lộ những chuyện rất lạ trước hai người làm chứng mà bà mời đến. Bà nói rằng khi bắt đầu cuộc cách mạng, người đại điền chủ, ông Luis ấy, đã chuyển bao đựng vàng và bạc đến ngôi nhà Passy và những bao ấy đã biến mất trước khi ông bị bắt giữ vài ngày. Theo lời kể trước đây của Charles d’Ernemont thì anh thừa kế những báu vật cha anh cất giấu trong vườn giữa cái đình mái tròn, cái đồng hồ mặt trời và cái giếng. Như là bằng chứng, bà đầy tớ già chỉ vào ba bức tranh hay đúng hơn là ba mảnh vải (vì những bức tranh không đóng khung) mà người đại điền chủ đã vẽ suốt thời gian ông bị cầm tù. Ông đã yêu cầu bà giao các bức tranh cho vợ của ông, cho con trai và con gái của ông. Bị cái mùi phú quý cám dỗ, Charles và bà vú đã giữ im lặng. Nhưng rồi vụ kiện đã nổ ra, việc chiếm lại ngôi nhà, hành động điên rồ của Charles, những cuộc tìm kiếm của cá nhân Charles và của bà đầy tớ già đều vô vọng. Những báu vật vẫn còn đấy.