Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 06 - Phần 1
HỒI THỨ SÁU
Sãi vương đãi hiền, Đào Duy Từ tìm vào đất Quảng
Thanh Đô kế vị, Phùng Khắc Khoan phục chức thượng thư.
Bấy giờ các quan văn võ họp bàn việc nước. Quan võ ban là bọn thái bảo Lị quận công Lê Lựu, Phụ quận công Nguyễn Hắc nghiêm giọng nói:
- Các ông ăn lộc hậu của chúa thì phải báo đáp ơn trọng của chúa. Nay chúa thượng vừa mới băng hà, thiên hạ không thể mỗi ngày không vua thiếu chúa. Sao các ông không bàn việc tôn lập thế tử lên ngôi báu, điều khiển binh dân trong thiên hạ để cho vững mạnh căn bản
Các quan văn võ đều chắp tay nói: “Phải!”. Rồi dâng biểu tâu vua Lê xin sắc phong cho Thanh quốc công Trịnh Tráng làm khâm sai đô tướng tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, tả tướng thái phó Thanh quốc công. Thanh quốc công nhận sắc phong, vào triều bái yết vua Lê, rồi trở về phủ chúa xử lí việc chính sự.
Bấy giờ có thái úy của Nam triều là Lương quốc công đem hơn một nghìn chiến thuyền đến phủ Yên Trường trấn Thanh Hoa tiến nạp trước quan doanh, do đó binh uy ngày càng chấn phát.
Tháng tám, Mạc Kính Khoan[135] ở Cao Bằng đem quân vào đánh phủ Trường Yên, sai quan đi đóng đồn ở các nơi để làm thanh thế. Kính Khoan sai các tướng là Xuân Quang đóng giữ Hải Dương, Uy Lãng đóng đồn ở Sơn Nam, Thao Lược đóng đồn ở Sơn Tây, Trí Thủy đóng ở Kinh Bắc, tuyển quân chọn tướng để chống cự với quân của chúa Trịnh.
[135] Mạc Kính Khoan: cháu nội của Mạc Kính Điển, gọi Mạc Kính Cung bằng chú. Khi nhà Mạc thua chạy khỏi Thăng Long. Kính Khoan lên lập căn cứ ở Cao Bằng, xưng là Khánh vương, đặt niên hiệu là Long Khánh (1623 - 1625).
Tháng ấy, Thanh quốc công Trịnh Tráng dâng biểu lên vua Lê xin rước ngự giá trở về. Rồi Thanh quốc công thống lĩnh tướng sĩ thủy bộ tiến về kinh đô Thăng Long.
Quân chúa Trịnh đi đến xã Châu Cầu xứ Sơn Nam gặp tướng nhà Mạc là Xuân Quang đem quân chặn đánh. Thanh quốc công sai tướng Nghệ An là đô đốc Định quận công Hoàng Nghĩa Phì đưa quân đánh mở đường ở bến đò Cương. Quân của Mạc Xuân Quang thua to, bỏ chạy tán loạn, chết trận rất nhiều. Xuân Quang một mình tìm đường chạy trốn về Cao Bằng.
Thanh quốc công tiếp tục tiến quân. Đến xứ Điện Chùy gặp vua nhà Mạc là Kính Khoan đem quân vây đánh. Thanh quốc công thúc quân tiến gấp như gió thổi mây cuộn. Quân Mạc cả kinh, biết thế lực không chống cự nổi, vội co đầu lạnh gáy nhằm theo phía núi Vân mà chạy không dám ngoái lại.
Con gái Mạc Kính Khoan là vợ Kỳ quận công tiến lên phía trước nói với Mạc Kính Khoan:
- Xin phụ vương cho phép, con tuy là phận gái nhưng cũng có chí khí nam nhi anh hùng, xin phụ vương cho đem quân đi chặt đường chặn đánh, chém đầu quân địch để rạng mặt nữ lưu hào kiệt. Còn phụ vương xin tìm đường thoái lui ngay, chớ nên nấn ná lâu nơi này!
Nói đoạn Mạc thị liền dàn quân đợi đại binh của Thanh quận công kéo tới. Quân hai bên đánh lớn một trận. Rốt cuộc Mạc thị là phận gái, sức không địch nổi, bị quân Trịnh đâm trúng trong đám loạn quân, chết tại trận. Quân Mạc thua to tìm đường chạy trốn.
Thanh quốc công phò giá vua Lê về đến kinh thành. Trăm quan các tướng đều đến chầu mừng. Thanh quốc công lại sai tu sửa cung vua phủ chúa, cùng các kho tàng phố phường cho được như cũ.
Từ đó uy quyền ngày càng lừng lẫy, Thanh quốc công dâng biểu cầu phong làm nguyên súy thống quốc chính, tước Thanh Đô vương, giữ cờ mao tiết việt. Mọi việc chính sự trong nước đều ủy cả cho Thanh Đô vương Trịnh Tráng định đoạt.
Bấy giờ có Cẩn quận công họ Vũ[136] ở Đại Đồng[137] đem quân về hàng. Thanh đô vương sai quan đi trấn thủ các nơi gần xa được dân yên giặc tắt, biển lặng sóng trong, người ta đều khen là thời thịnh.
[136] Tên tước của Vũ Công Ý.
[137] Đại Đồng: tên đất thuộc phủ Yên Bình, trấn Tuyên Quang. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật dấy binh chống Mạc, giúp nhà Lê trung hưng. Về sau trở thành một lực lượng cát cứ, tuy thực tế không xưng vua nhưng con cháu truyền nối cai trị vùng Đại Đồng.
Tháng chín ở Nam triều, Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên coi chầu, cùng các quan văn bàn chuyện cổ kim. Rồi vương xuống chiếu chiêu hiền đãi sĩ. Bỗng nghe tin ở Bắc triều Bình An vương Trịnh Tùng bệnh tình nguy ngập, bị con là quận Vạn cưỡng bắt đem đi, chết dọc đường thật ê chề nhục nhã. Sãi vương bèn triệu các quan văn võ vào phủ họp bàn. Sãi vương bảo các tướng:
- Họ Trịnh rắp tâm hung ác, lăng loàn tiếm quyền vua Lê, uy hiếp sỉ nhục các công khanh đại thần, đến nỗi tấm thân bị con cháu phản nghịch, tranh cướp, chết quăng thây bên đường, ấy lá cách trời đất báo trả vậy.
Bèn ra lệnh bắn đại pháo ba tiếng, hô lớn ba tiếng để chúc mừng.
Xong việc, Sãi vương hỏi cách đối phó việc ấy, các tướng chưa kịp bàn luận, bỗng có viên quan văn ở hàng bên hữu đứng dậy bước lên trước thưa:
- Bình An vương chết, con cháu kế vị, bên ta muốn đánh thì đánh, muốn giữ thì giữ, có gì mà phải bàn! Nhưng vừa rồi chúa thượng cho quân sĩ bắn súng và hô như thế là nghĩa làm sao?
Sãi vương nhìn ra mới hay đó là Chiêu Vũ[138], con trai của tham tướng Triều Văn[139]. Chiêu Vũ tuổi mới mười sáu, có tài văn học, thông minh sáng trí, được chúa dùng làm văn chức. Nghe Chiêu Vũ nói xong, Sãi vương cười nói:
- Chiêu Vũ còn nhỏ tuổi, chưa am hiểu việc quân cơ nên lời nói còn lỗ mãng, tính chưa thuần. Nay phải giao về cho Triều Văn dạy dỗ, ngày sau lớn lên sẽ cất nhắc làm quan văn!
Chiêu Vũ vái tạ mỉm cười bước ra khỏi cổng phủ, trở về nhà. Rồi Sãi vương bảo các tướng:
- Ta muốn nhân thời cơ mà cử sự để khôi phục Trung đô, khuông phò cơ nghiệp vua Lê. Nhưng nhà ta với họ Trịnh vẫn là chỗ thân thích. Kinh sách nói: Thừa lúc người ta có tang mà đánh là bất nhân, nhân khi người ta nguy cấp mà đoạt là bất võ. Chi bằng hãy sai người đem lễ vật ra điếu tang, trước để kết ơn tình, sau là để nghe ngóng hư thực ra sao rồi sẽ định kế thi hành cũng chưa muộn.
Các tướng đều cho lời bàn ấy là phải. Rồi Sãi vương sai người đem lễ vật phúng viếng ra Thăng Long lập đàn phúng tế. Thanh Đô vương thấy vậy khôn xiết vừa lòng, khoản đãi rất hậu rồi cho sứ giả trở về. Mùa đông, tháng mười, Thanh Đô vương tôn phong cho chú là Phụng quốc công, làm phó nguyên súy phủ, tước Dương Lễ công, được cùng xử lí việc nước.
Bấy giờ Dương Lễ công Trịnh Đỗ[140] có con trưởng là quận Thạch vốn tính tình hung bạo, thường ngấp nghé muốn chiếm đoạt đại quyền. Quận Thạch do vậy liên kết mua chuộc những kẻ hào kiệt trong nước.
[138] Tên tước của Nguyễn Hữu Dật.
[139] Tức Nguyễn Triều Văn, quê ở Gia Miêu Ngoại trang, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa.
[140] Phụng quốc công sau được thăng là Dương Lễ công, là tên tước của Trịnh Đỗ, em Trịnh Tùng. Nguyên thư chép nhầm là Trịnh Cối. Chúng tồi chỉnh lí lại (cả Toàn thư và Cương mục đều không ghi tên tước Dương Lễ công, nhưng. Trịnh gia thế phả có ghi tên tước đó của Trịnh Đỗ, như CNDC đã ghi đây).
Một hôm quận Thạch đến nhà người em của chúa là Gia quận công, vào ngồi trong phủ đường. Hai người thảnh thơi ngồi luận đàm sự tích anh hùng danh tướng các đời xưa nay, nào những việc tranh bá đồ vương, khai khẩn đất đai, mở mang bờ cõi đều được hiển đạt, danh lừng khắp trong ngoài. Đang khi cười nói, quận Thạch xúc cảm bồng bột vỗ chiếu bảo quận Gia rằng:
- Anh em ta là nam nhi, trong lồng ngực căng có chí anh hùng hào kiệt, chẳng phải hạng đàn bà mặc váy đeo yếm, thế mà vẫn bo bo cúi đầu chịu cho người ta sai khiến hay sao?
Nói xong quắc mắt, bừng giận. Quận Gia nghe quận Thạch nói xong thầm nghĩ: “Tay này hẳn là manh tâm làm phản cho nên mới biểu lộ ra ngoài như thế, ta biết tỏng cả”. Nghĩ đoạn bèn vỗ vai quận Thạch mà bảo rằng:
- Ngày xưa Đường Thái còn biết biến nhà thành nước. Tống Tổ[141] thường nghĩ việc đổi ngôi tôi thành vua. Huống chi quý phủ là người anh hùng cái thế, dũng mạnh siêu quần, người ta đều khâm phục ái mộ, nào có lo gì không thành tựu được!
[141] Gọi tắt Đường Thái Tông và Tống Thái Tổ.
Quận Thạch gật gù cả mừng. Khi hai người chia tay, quận Gia thầm nghĩ: “Tên giặc Thạch này hung ác thế thật chẳng khác gì loài cầm thú. Quên nhân luân, vứt đại nghĩa, dung thứ cho nó có ích gì?”.
Nghĩ thế quận Gia bèn vào phủ chúa tố cáo với Thanh Đô vương về việc quận Thạch mưu phản. Thanh đô vương nghe xong bừng bừng nổi giận mắng rằng:
- Thằng súc sinh chứng nào vẫn tật ấy! Nay lại manh tâm làm phản! Bè lũ hung ác thật khó dung tha!
Nói đoạn sai gọi quan đô khoa Lưu Đình Chất vào phủ hỏi rằng:
- Có ông quận Gia tố cao quận Thạch mưu phản, nên xử trí thế nào?
Lưu Đình Chất nói:
- Bọn này hung ác ngang ngạnh không chịu từ bỏ thói cũ. Nay lại manh tâm làm phản cách xử trí cần phải thận trọng, chớ nên nóng vội. Xin chúa thượng sai người truyền lệnh cho các quan văn võ ngày mai vào hội ở phủ đường, ban thưởng trọng hậu cho mọi người, khi quận Thạch đến, lệnh cho bắt ngay, thế là thượng sách, khỏi phải sai quân vây đánh phủ dinh của hắn, đỡ mệt nhọc sĩ tốt, tổn hại cho dân lành. Ấy là kế “thả cá câu cá” vậy.
Trịnh Tráng nghe theo lời, bèn sai người triệu họp các tướng. Sáng sớm ngày hôm sau, tể tướng và các quan vào chầu ở phủ chúa, ai nấy theo thứ bậc đều ngồi yên vị. Thanh Đô vương tay cầm thanh bảo kiếm trao cho quan Đô khoa Lưu Đình Chất nói:
- Khanh hãy vạch mặt chỉ tên ra.
Lưu Đình Chất vâng lệnh cầm kiếm trên tay nghiêm giọng nói:
- Ngày hôm qua ông quận Gia nói gì, sao không trình bày minh bạch cho cả triều đình cùng nghe? Phải chăng là định bưng bít che giấu?
Bấy giờ quận Thạch nghe lời Lưu Đình Chất nói mặt mày tái mét, mồ hôi ướt vã sau lưng, bồn chồn như ngồi trên đống lửa.
Lúc ấy quận Gia bèn quỳ xuống bẩm rằng:
- Chiều hôm qua là ngày ba tháng tư, quận Thạch đến nhà thần, mượn cớ là đến thăm. Trong khi ngồi chơi nói chuyện, quận Thạch bỗng nhiên chuyển sắc mặt giận dữ, nghiêm giọng nói: Anh hùng xưa nay đều là những kẻ tranh bá đồ vương, đổi tôi làm vua, biến nhà làm nước, đều được hưởng vinh hoa phú quý vô cùng. Ta cũng là nam nhi, cớ sao bo bo như đàn bà con gái để cho người ta chế ngự. Nghe lời nói ấy, thần biết quận Thạch có lòng làm phản, thần không dám giấu giếm, bèn vào phủ bẩm chúa thượng biết. Xin triều đình xét định.
Quận Thạch nghe quận Gia nói cả kinh, hồn bay ngoài chín cõi, mồ hôi vã như xối, bấy giờ vội bỏ mũ, quỳ gối, rập đầu kêu oan:
- Thần sinh ra làm người cũng biết đạo quân thần phụ tử, cũng hiểu điều trung hiếu kính yêu. Đó là quận Gia vu cáo chứ thần không nói như thế. Muôn trông vương thượng minh xét kẻo oan uổng cho thần.
Thanh Đô vương làm thinh ngồi nghe.
Quan đô đài Nguyễn Thế Danh nói:
- Đó chỉ là lời chống chế của quận Thạch. Xem sắc mặt thì biết tính gian đã rõ! Xin triều đình xét hỏi minh bạch để định tội cho đúng.
Các tướng nổi giận điệu quận Thạch ra tra khảo, cho đến lúc phải nhất nhất chịu khai. Rồi các tướng dẫn quận Thạch vào nộp trước mặt Thanh Đô vương. Thưa rằng:
- Quận Thạch là đứa sất phu, quả đã có gian tình như thế. Không thể nào dung tha cho cha con hắn được!
Trịnh Tráng nghe xong cả giận, nhưng giả cười mà bảo quận Thạch rằng:
- Đó là việc thường xưa nay, há phải chỉ một mình ngươi đâu. Nhưng sang hèn đã có mệnh trời định sẵn, khó mà tranh đoạt được! Nay tội trạng của ngươi như thế, có gì mà nói nữa?
Quận Thạch chưa kịp cất miệng, Lưu Đình Chất đã quát vang:
- Võ sĩ đâu!
Quân hổ bí[142] vội xông ra túm cổ quận Thạch kéo ra bên ngaòi trước cửa phủ chúa thắt cổ giết chết. Rồi Thanh Đô vương sai quân vây phá phủ dinh của Dương Lễ công Trịnh Đỗ, tước binh quyền, tịch thu hết tài sản, voi ngựa, khí giới của Đỗ vào việc chi dùng ở phủ chúa. Biếm truất Trịnh Đỗ làm dân thường. Trịnh Đỗ chịu tội, lui về sống ở ruộng vường, rồi vì xấu hổ mà ốm chết.
[142] Hổ bí: tên gọi quân dũng sĩ.
Người thời bấy giờ có thơ chê trách như sau:
Không dưng bằng địa nổi nghê kình,
Lời kín đâu ngờ lỡ kiếp sinh!
Cá bơi trong chậu kheo nhẩy lượn,
Hươu chạy trong giếng uổng tung hoành.
Lưu Chất trí giỏi mau trù định,
Quận Thạch mưu ngu chịu nhục hình.
Đếm đốt ngón tay loài hung ác,
Ê chề chẳng ngớt tiếng ô danh!