Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 07 - Phần 2

- Các ông sao cứ giữ mê đến như thế? Người đầu tiên chiêu tập nghĩa binh để khuông phù nhà Lê, phục hồi nghiệp đế đều là công sức của tổ tông nhà họ Nguyễn, chẳng phải chỉ một mình họ Trịnh mà có thể làm nổi. Đối với việc giữ yên xã tắc, nhất thống sơn hà, lẽ nào người có công cao mà không thưởng được không? Hơn nữa họ Trịnh lại tiếm đoạt quyền chính, càn rỡ, tự cho mình là to, trên khinh nhờn thiên tử, dưới hiếp đáp đình thần, ai nấy đều không dám hé răng. Phú quý đã tột mức mà không chịu dừng. Nay lại thôi thúc chủ chúng tôi đưa tô thuế ra nộp. Phải chăng là coi dân xứ Nam chúng tôi như đàn bà con gái? Nếu tự cậy là anh hùng, thì đó anh hùng, chúng ta đây cũng là hào kiệt, há chịu khom lưng để cho người ta nắm cổ tay lôi đi hay sao?

Thụy quốc công nghe các tướng nói xong, bèn đập tay cười vang mà bảo các tướng rằng:

- Các ông không cần phải nhiều lời nữa. Ta với Thanh Đô là chỗ tình nghĩa thân thích, ơn như tim phổi, chớ vì chuyện tín nghĩa mà gây thù kết oán để thiên hạ người ta chê cười cho. Ấy không phải chuyện hay.

Rồi đó Thụy quốc công quay lại nói với sứ giả:

- Thụy quốc công nói xong sai người đem bạc và lụa hậu tặng cho những người trong sứ bộ của Bắc triều.

Chuyện nói đến đây chia làm hai đằng kể tiếp:

Những người trong sứ bộ Bắc triều bị lời lẽ áp đảo, đành nén lòng vái chào lên đường trở về Bắc, đem lời phúc đáp của Nam chúa là Thụy quốc công bẩm trình với Thanh Đô vương Trịnh Tráng. Thanh Đô vương nghe xong cả giận muốn dốc hết quân lính đi đánh phạt Nam chúa, nhưng vì bấy giờ đã sắp hết năm nên đành phải tạm lắng.

Năm Đinh Mão, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ chín (1627), tháng giêng, ở Bắc triều, Thanh Đô vương Trịnh Tráng từ khi Binh khoa cấp sự trung Nguyễn Hữu Bảng vâng lệnh đi sứ vào Nam trở về bẩm trình công việc như thế, Thanh Đô vương rất làm căm tức đối với Thụy quốc công, muốn cất quân đánh lấy hai xứ Quảng Nam, Thuận Hóa. Nhưng nghĩ rằng đem quân đi đánh như thế không có danh nghĩa gì. Rồi đó Thanh Đô vương bèn nghĩ ra một quỷ kế, mật sai người vào Nam trấn làm như thế, như thế… Nếu chống lệnh, tất đem quân vào đánh hỏi tội có lí lẽ, bấy giờ hãy xuất quân cũng chưa muộn.

Rồi đó Thanh Đô Vương sai trung sứ là An Toàn hầu Lê Đại Nhậm[174] đi Thuận Hóa, vào phủ chúa bẩm với Sãi vương rằng:

- Hoàng thượng có lệnh truyền cho Nam chúa phải đưa công tử cưng nhất về kinh chầu hầu làm con tin. Một là chầu cửa vua để vẹn đạo quân thần, hai là hầu việc ở vương phủ để thể hiện tình anh em với chúa Trịnh. Lại phải chọn voi đựa ba mươi con, thuyền biển ba mươi chiếc cùng lúc đưa ra nộp ở triều đình để làm lễ cống cho nhà Minh còn thiếu năm trước, phải mau mau sai người đem ra tiến nộp, chớ để chậm trễ. Trái lệnh vua là phạm tội không thể dung tha, chẳng có lí lẽ gì để oán trách nữa.

[174] Sứ giả của Trịnh Tráng mang sắc phong vào Thuận Hóa năm 1627. Toàn thư không chép, CNDC và ĐNTLTB chép là An Toàn hầu Lê Đại Nhậm. Đến thời Tự Đức, vì kiêng húy Nhậm nên Cương mục phải đổi là Lê Đại Dũng (nhậm và dũng là hai từ đồng nghĩa).

Thụy quốc công nghe sứ giả nói, cho là thậm vô lí, hết sức tức giận, nhưng vẫn giả làm ra vẻ tươi cười, nói với sứ giả rằng:

- Vâng lệnh hoàng thượng, ông hãy trở về. Tôi muôn lạy hoàng đế, sau nữa gửi lời chào Thanh Đô. Tôi vẫn nghe nói lệ vật nước ta nộp cho nhà Minh chỉ là vàng tốt và kì nam mà thôi, hai thứ ấy đúng là vật quý, còn như voi đực và ghe thuyền thì từ trước đến nay không thấy có lệnh ấy. Huống chi voi thì còn ở trên rừng, tôi đã sai tìm mà chưa bắt được. Thuyền biển thì gỗ lạt hết nhẵn, đang sai quân đốn chặt. Nếu có lệnh tuyên nộp gấp cũng hãy tạm chờ vài năm để làm cho hoàn bị, rồi sẽ sai người ra báo tin. Còn như lệnh đòi đưa công tử về kinh làm con tin thì con tôi còn bận việc coi sóc quân sĩ, đúc sung lớn, sửa sang khí giới để đề phòng sự bất trắc bốn phương, chưa rỗi để về kinh chầu hầu! Có về cũng phải đợi vài năm nữa cho công việc xong xuôi bấy giờ hãy ra kinh đô bái yết hoàng đế cũng chưa muộn! Còn như tức tốc phải làm theo ngay, thì là bức bách nhau, tôi chưa dám vâng mệnh vậy.

Sức giả nghe Nam chúa nói xong, vái chào trở về kinh, vào triều bẩm với Thanh Đô vương lời lẽ phúc đáp của Nam chúa. Thanh Đô vương nghe xong cả giận, vội sai triệu các tướng vào phủ chúa hội họp để bàn việc cất quân đi đánh xứ Nam.

Tháng ba, Thanh Đô vương đích thân thống lĩnh đại quân thủy bộ rước xa giá vua Lê đi đánh phạt xứ Nam.

Tháng tư, đại quan tiến đến cửa Nhật Lệ, chia quân đóng trại đồn trú, làm thành thế trận để phối hợp tiến đánh.

Bấy giờ Sãi vương được tin báo bèn triệu các quan văn võ vào phủ dinh bàn định, vương sai tướng người họ là Vệ quận công[175] làm tiết chế, Lương quận công[176] làm phó, quan văn là Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật làm giám chiến đem bộ binh tiến theo đường thượng đạo[177]. Lại sai con là Trung Tín hầu làm tiết chế thủy sư đem thủy binh đi tiếp ứng cho bộ binh, dàn quân để đợi đánh quân Bắc triều.

[175] Tức Nguyễn Phúc Vệ (Theo hệ tính của nhà Nguyễn gọi là Tôn Thất Vệ), cháu nội của Nguyễn Hoàng, gọi Phúc Nguyên bằng chú (con thứ tư của Hà quận công Nguyễn Phúc Hà).

[176] Tên tước của Trương Phúc Gia.

[177] Thượng đạo: đường đi ở miền núi,đường núi.

Lại nói, ngày mồng mười tháng ấy, tiết chế cánh quân đi xuống thượng đạo là Vệ quận công, quan văn giám chiến là Chiêu Vũ, chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu trong rừng núi, bất ngờ xông ra đánh quân của Bắc triều. Hai bên đánh lớn mấy trận chưa phân thắng bại. Bên Trịnh tung thêm quân ra sức tiến đánh. Bên ta giữ vững đồn lũy không đem quân ra ngoài.

Ngày 13, giám chiến Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, cùng với Lương quận công Trương Phúc Gia bàn mưu thi hành kế phản gián. Sai gián điệp[178] lẻn ra miền Bắc tung tin đồn rằng: Anh em của chúa là bọn quận Gia, quận Nhạc[179] cùng mưu dấy loạn ở kinh đô muốn đoạt ngôi chúa. Chẳng mấy hôm lời phao đồn bay đến miền Nam hà[180], Thanh Đô vương nghe biết cả kinh. Từ đó vua tôi an hem nghi ngờ lẫn nhau, trễ biếng việc đánh chác, quân sĩ không muốn chiến đấu. Thanh Đô vương Trịnh Tráng bèn hạn lệnh rút quân về kinh đô để giữ chắc căn bản.

Bấy giờ tướng Nam triều là công tử Trung Tín hầu[181] dò biết tin Trịnh Tráng rút quân về liền dẫn quan đuổi theo đến bờ nam sông Gianh. Nhưng khi ấy quân Trịnh đã đi xa rồi. Trung Tín hầu bèn thiệt thoái quân sĩ về trong xứ. Về đến nơi, Trung Tín hầu vào phủ báo tin cho Sãi vương biết. Sãi vương cả mừng, khen ngợi Trung Tín hầu hồi lâu. Rồi đó vương sai mở tiệc khoản đãi các tướng, trọng thưởng cho Chiêu Vũ, chuyện ấy khỏi phải nói.

[178] Nguyên văn “Tế tác nhân” (người làm những việc nhỏ nhặt, tức những việc khôn ngoan mưu trí), danh từ thời cổ có ý nghĩa tương tự như người làm gián điệp, do thám.

[179] Tức Trịnh Gia và Trịnh Nhạc.

[180] Tức phía Nam sông Nhật Lệ, vùng do chúa Nguyễn kiểm soát. Bấy giờ quân Trịnh vượt sông Gianh đã vào đến Nhật Lệ.

[181] Tên tước của chưởng cơ Nguyễn Phúc Trung, con thứ tư của Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên (sau mưu phản chết trong ngục).

Lại nói bấy giờ khám lí Cống quận công Trần Đức Hòa ở phủ Hoài Nhơn nghe tin Sãi vương dẹp giặc thắng lớn, bèn thân hành về công phủ chúc mừng. Cống quận công chúc mừng đã xong, Sãi vương gọi vào trong điện mời ngồi, hỏi thăm dân tình Quảng Nam làm ăn yên vui hay đau khổ ra sao. Khám lí Cống quận công thưa rằng:

- Nhờ chúa thượng rộng ban ơn đức, hiệu lệnh nghiêm minh, thân gần những người trung thần lương tướng lánh xa những kể xiểm nịnh gian tà, ngăn cản hung bạo, trừng phạt ác cướp, người người đều tuân theo mệnh lệnh, trăm họ đều được yên cư, vỗ bụng ca mừng, khen là đời sáng thịnh, có gì là đau khổ đâu!

Sãi vương nghe nói cả mừng. Sau đó khám lí Cống quận công đứng dậy lấy trong ống tay áo ra bản chép bài văn của Lộc Khê trình lên Sãi vương nói rằng:

- Ở nhà thần có một viên huấn đạo[182] nhân lúc nhàn rỗi làm bài văn Ngọa Long cương. Thần là kẻ quê mùa nông cạn, thấy bài văn từ điệu thanh nhã, lời lẽ giúp nước cứu đời, có ý vị sâu đượn, xin chúa thượng ngó thử xem hay dở ra sao.

[182] Huấn đạo: Giáo chức trông coi việc học ở một huyện.

Sãi vương cầm bài văn lên xem thấy quả là có tài vén mây rẽ mù, đủ thuận đẹp loạn lập trị, so với thơ văn tài tử của cổ nhân, không phải là thua kém lắm. Sãi vương thấy vậy trong bụng cả mừng, bèn bảo khám lí Cống quận công:

- Khanh mau vời người ấy đến để ta sớm được gặp mặt, thỏa lòng hằng mong.

Cống quận công Trần Đức Hòa vái chào trở về, cách mấy tháng sau cùng đi với Lộc Khê ra công phủ chầu đợi. Cống quận công bèn sắm mũ chầu đưa cho Lộc Khê đội để cho đầy đủ nghi thức tiến dẫn. Nhưng Lộc Khê nói:

- Có chức thì mới có đội mũ, không có chức thì không dám đội.

Bèn gạt đi không dùng, cứ để đầu trần theo Cống quận công vào phủ chúa.

Bấy giờ Sãi vương đang ngồi trên điện trầm ngâm nghĩ ngợi, tìm cách để thử người sắp được tiến dẫn, để biết người ấy trí tuệ ra sao mà tiện bề sử dụng. Vương bèn mặc áo trắng đi hia xanh, tay cầm long trượng[183] vai khoác túi vải, đi ra ngoài cửa bên đứng chờ, nét mặt vui vẻ rạng rỡ. [183] Long trượng: Cây gậy ở tay cầm chạm hình đầu rồng.

Lộc Khê trông thấy bèn hỏi Cống quận công:

- Người này là ai vậy, thưa ông?

Quan khám lí khẽ đáp:

- Vương thượng đấy! Con mau đến lạy chào!

Lộc Khê nghe nói thế chỉ cười nhạt, không chịu đến chào, rồi rảo chân quay bước đi ra. Lộc Khê gần ra khỏi sân, Cống quận công đuổi theo kịp trách rằng:

- Chúa ngự ra đây để đợi cơi, sao con không lạy chào? Con không chịu lạy thì tội tất phải quy vào ta thôi!

Lộc Khê đáp:

- Đấy là tư thế của vương thượng lúc sắp đi dạo chơi cùng với bọn con gái, không phải là nghi lễ tiếp khách đãi hiền. Nếu con lạy chào tức là phạm vào tội khi quân[184], vì thế không dám lạy, có tội gì đâu?

[184] Khi quân: lừa dối, vô lễ với vua.

Khám lí Cống nghe nói thế phát gắt, thúc giục Lộc Khê đến lạy chào, nhưng Lộc Khê vẫn đứng yên một chỗ chỉ cười khẽ mà thôi. Thế là Sãi vương biết ý, trong lòng rất mừng, bèn trở vào trong phủ sửa sang áo mũ, lên ngồi ở công đường, sai nội giám lấy áo mũ quan văn đem ra ban cho Lộc Khê, rồi mời vào sảnh đường bái yết.

Lộc Khê cùng đi với viên nội giám vào trong sảnh bái yết Sãi vương. Nghi thức lạy chào xong, Sãi vương đứng dậy tiếp lễ, nói với Lộc Khê:

- Ta đợi nhà thầy[185] đã lâu, sao thầy đến muộn thế?

[185] Nguyên văn xưng từ “tử”, tiếng xưng hô dành cho người có tài đức cao mà mọi người tôn trọng như bậc thầy.

Lộc Khê rằng:

- Thần là kẻ hủ nho nơi thôn dã tài thưa học cạn, tiến thoái đều lo sợ đến nỗi chậm trễ khiến chúa thượng phải trông mong, thần muôn lần cam chịu lỗi!

Sãi vương nói:

- Quân thần hợp đạo với nhau là nhân duyên ngàn năm chung hội một nhà. Các bậc đế vương ngày xưa chọn người hiền tài giúp rập để tác thành sự nghiệp lớn. Nay ta được gặp thầy, cũng là như thế chăng?

Lộc Khê nhân đó thưa rằng:

- Thần vốn chỉ là kẻ thư sinh không nơi nương dựa, được đội ơn sâu của thánh thượng thu dụng, cho trổ sức trâu ngựa để báo đền tấm ơn đặc cách quá người. Thần không dám tự ví mình như ông lão ngồi câu trên sông Vị[186], như kẻ nông phu cày ruộng ở đất Sằn[187], nguyên xin chúa thượng bao dung khoan thứ.

[186] Chỉ Thái Công Vọng (hoặc Lã Vọng).

[187] Chỉ Y Doãn (khi chưa ra giúp Thành Thang nhà Thương. Y Doãn chỉ làm kẻ cày ruộng ở đất Sằn.

Sãi vương nghe nói không ngớt khen thầm trong bụng, bèn phong cho Lộc Khê quan hàm kim tử vinh lộc đại phu đại lí tự khanh, vệ úy nội tán, tước Lộc Khê hầu, được dự bàn các việc quốc chính quân cơ trong ngoài.

Lộc Khê vái tạ nhận chức rồi lui chầu. Khám lí Cống quận công mừng vui khôn xiết. Từ đó Sãi vương thường gọi Lộc Khê vào phòng riêng cùng bàn luận sự việc cổ kim, các mưu kế giúp vua yên nước, dẹp bạo, trừ gian, có khi suốt cả ngày không mệt chán, vua tôi đều mừng vui bội phần. Người đương thời thấy Sãi vương tin dùng Lộc Khê không câu nệ thứ bậc trên dưới, nhân đó có thơ vịnh rằng:

Nắng rọi sao ngời chiếu khắp miền;

Quân thần tựa nước cá ưa duyên.

Kế mưa trù tính quy mô lớn,

Chính sự khuông phù xã tắc yên.

Chí mạnh tôn vua nuôi hoài bão,

Lòng son giúp chúa gánh ưu phiền.

Nam Dương người rặng Nam Dương đó[188]

Giúp rập cơ đồ ức vạn niên.

[188] Nam dương: Gia Cát Lượng trước khi ra giúp Lưu Bị ở bên núi Ngọa Long, đất Nam Dương người ta thường gọi là Nam Dương Công.

Lại nói Thánh Đô vương Trịnh Tráng ở Bắc triều từ khi rước xa giá vua Lê đi đánh Nam hàn, nghe nói quận Gia, quận Nhạc dấy loạn ở kinh đô bèn rút quân trở về đến kinh xét hỏi nguyên do thì không có tin tức gì về việc ấy, Trịnh Tráng mới hay là đã bị kế phản gián của người Nam, lấy làm xấu hổ bèn lờ đi không nhắc đến việc ấy nữa.

Mùa thu, tháng tám, mở khoa thi hương chọn cống sĩ, những người trúng tuyển đều được triệu về kinh bái yết, ban cho tiền lụa có thứ bậc khác nhau, từ đó thành định lệ.

Năm ấy dân bốn trấn[189] bị thiên tai lũ lụt, trăm họ người chết đói chết rét, bỏ nhà đi xiêu tán khắp nơi rất nhiều. Thanh Đô vương rất lấy làm lo buồn, nhưng thóc gạo trong kho đã vận chuyển để dùng vào việc binh hết sạch, không còn gì mà chẩn cấp.

Năm Mậu Thân, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ mười (1628), mùa xuân, tháng hai, Thanh Đô vương sai em là thái bảo Quỳnh quận công[190] làm đề điệu[191], mở khoa thi hội các cống sĩ, lấy đỗ bọn Giang Văn Minh mười tám người. Vương thân ra đầu đề văn sách, ban các hạng cập đệ và xuất thân có thứ bậc khác nhau.

Năm ấy, Thanh Đô vương nghĩ đến Lê Thái Tổ Cao hoàng đế cùng là Minh Khang thái vương[192] và Tiên Triết vương[193] là các vị có công lớn trong việc bình Ngô diệt Mạc, sai quan đi cất dựng đế miếu ở Thanh Hoa, Nghệ An và các nơi khác ở bốn trấn, phụng rước bài vị hoàng đế và các tiên vương về phụng thờ, bốn mùa trưởng tế để tưởng nhớ công lao. Đó là đạo vua tôi rất mực vậy[194].

[189] Bốn trấn: tức là các trấn xung quanh kinh đô Thăng Long (Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam).

[190] Quỳnh quận công, cũng tức là Quỳnh Nham công, tên tước của Trịnh Lệ.

[191] Đề điệu: viên quan điều khiển toàn bộ một khoa thi (dùng đại thần ban võ).

[192] Minh Khang Thái Vương: Thụy hiệu của Trịnh Kiểm.

[193] Tiên Triết Vương: Thụy hiệu của Trịnh Tùng.

[194] Nguyên thư đến đây còn chép tiếp mấy dòng về sự việc năm Vĩnh Tộ 11 (1619) nhưng bỏ dở, các văn bản hiện còn bị thiếu đoạn này.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3