Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 24 - Phần 2

Đốc chiến Chiêu Vũ vâng lệnh trở về doanh trại. Bấy giờ nguyên súy Hiệp Đức truyền lệnh ngay cho các đạo: ban đêm hễ nghe ngoài lũy có tiếng sung nổ thì quân sĩ ở đâu đóng yên tại đó nhưng cấp tốc phát sung bắn giả, cùng lúc nổi trống hò reo trợ uy tiếp ứng, chờ đến tảng sáng quân các đạo nhất tề vượt lũy, đuổi dài để bắt sống bọn quận Phú, quận Đương!

Các tướng nghe lệnh, ai nấy đều lặng yên ngẫm nghĩ: Chúa thượng đã có lệnh cấm quân không cho ra ngoài lũy, nay nguyên súy lại truyền lệnh vượt lũy đánh giặc, không hiểu là thế nào? Nhưng binh pháp đã nói: “Quân trong thành thì quyền tiết ở vua, quân ngoài trận thì quyền tiết chế ở tướng.” Huống chỉ trong lúc hành quân, pháp lệnh đều do ở nguyên súy. Nay nguyên súy đã ra lệnh như thế, ai dám không tuân theo? Thế là các tướng ai nấy đều trở về chuẩn bị chu đáo đợi giờ cử sự.

Lại nói đốc chiến Chiêu Vũ trở về bản doanh bên lệnh cho tì tướng là các cai đội Vân Tường, Vân Triều, Việt Tài và Tú Minh mỗi người lĩnh một đội quân, thẩy đều mặc áo đen để che nón vàng, bắt chước đúng cách thức ăn mặc của quân Bắc. Đến canh hai dẫn quân theo dòng khe nhỏ bí mật ra khỏi lũy, ngậm tăm cuốn cờ mà đi, giả xưng là quân Bắc đi tuần liễu. Khi đến gần hai trại quân của quận Đương và quận Hào thì lập tức cởi bỏ khăn đen áo ngoài rồi nổi trống hò reo xông vào giữa trại, bắn sung làm hiệu, quân các đạo đóng trên mặt lũy cũng hò reo tiếp ứng để đuổi bắt quân Bắc, không cho kẻ nào trốn thoát. Ai bắt sống được nhiều thì được thưởng công đầu, kẻ trái lệnh thì xử trị theo quân pháp.

Các tướng theo kế ấy mà thi hành. Ngày mồng năm tháng ba vào khoảng giờ Dậu bỗng có sương mù che kín bốn phía, đối mặt cũng không nhìn thấy rõ. Đốc chiến Chiêu Vũ cả mừng, liện hạ lệnh cho các tướng theo kế hoạch đã định mà thi hành. Bọn Vân Triều dẫn quân ra ngoài lũy theo khe nhỏ Đồng Hới đi ngang qua núi Mật Cật, đến khe xã Chính Thủy thì gặp quân tuần tra của Hào Man. Quân Trịnh hỏi: “Lính nào đấy?”, quân Nam đáp: “Quân của quan nguyên súy quận Đương đi tuần về đây.” Thấy toán quân kia áo nón cùng kiểu nên quân Bắc không chút nghi ngờ. Lại vì trời tối mây mù dày đặc không rõ số quân nhiều ít, người đôi bên cứ thế xen cả vào nhau mà đi. Đến gần cửa trại quân Trịnh, cai đội Vân Triều bèn đánh chiêng làm hiệu lệnh, quân Nam ai nấy đều cởi vứt khăn áo, hiện rõ là quân Nam. Bọn Vân Triều vung kiếm chém đầu hơn một trăm quân Trịnh ngay tại trận. Quân Trịnh kinh hoàng bỏ chạy vào trong lũy. Quân Nam thừa thế đuổi thốc vào giao chiến, tiếng sung ầm ầm như sấm nổ. Thế là các đạo quân Nam ở trong lũy nghe hiệu lệnh liền cùng lúc hò reo, nổ sung bắn giả. Tiếng súng và tiếng hò reo vang động khắp bốn phương trời.

Bấy giờ bọn quận Đương, quận Hào do lâu ngày không được chiến đấu, quân tướng đều có ý trễ nải, không đề phòng khả năng bị đánh bất ngờ. Trong giấc ngủ say mơ màng ai nấy nghe tiếng súng vang dội, lại nghe trong doanh trại dậy tiếng ồn ào, choàng tỉnh ngước đầu nhìn ra bên ngoài lửa cháy phần phật, mới hay quân Nam đã thọc đánh vào trong trại, nhưng địch quân người ngựa nhiều ít ra sao không biết rõ. Quận Trịnh kinh sợ cuống cuồng, thân không mảnh giáp, ai lo người nấy, nhân ánh lửa sáng rực như ban ngày cướp đường nhằm về phía Bắc mà chạy. Bấy giờ phía đông bình minh đã rạng, các đạo quân Nam cùng lúc vượt ra khỏi lũy đón đường đánh lớn. Bọn quân Phú, Trịnh Căn ngoái đầu nhìn lại chỉ thấy cờ xí rợp đất, tiếng chiêng trống vang trời, quân bộ ùn ùn kéo đến chật đất, quân thủy ngập biển đầy sông đuổi theo vùn vụt. Bọn quận Phú, quận Đương rét long run sợ, vội vất cả khí giới tàu thuyền, voi ngựa mà chạy bộ, vượt qua sông Gianh, cố thoát về phía đèo Ngang. Đến xã Bình Lân, bộn quận Đương dừng lại nghỉ chân, thở dốc không ra hơi. Kiểm lại số binh mã thấy mất một nửa, số chiến tướng tử trận tất cả là bốn mươi ba người. Bọn quận Phú, quận Đương, quận Hào đều hết sức hổ thẹn, ai nấy ôm đầu lủi thủi trở về Trung đô, nộp thân chịu tội, chuyện không có gì phải nói.

Nói tiếp bên quân Nam, đốc chiến Chiêu Vũ cùng các tướng thúc quân đuổi gấp, nhưng quân Trịnh chạy đã xa, đuổi theo cũng không kịp, bèn chỉ thu lấy khí giới, voi ngựa, tàu thuyền nhiều không xiết kể. Rồi Chiêu Vũ đem quân trở về, cùng vào trong dinh nguyên súy để dân gnộp. Nguyên súy Hiệp Đức trước đó đã ra ngoài lũy đứng đợi trên bờ đê. Khi các tướng về tới nơi, mọi người cùng nhau tương kiến. Chào hỏi đã xong, nguyên súy Hiệp Đức dắt tay đốc chiến Chiêu Vũ đi mời các tướng vào trong trướng theo ngôi thứ cùng ngồi. Nguyên suy sai bày tiệc lớn để khao đãi. Hiệp Đức vỗ vai Chiêu Vũ vui vẻ nói:

- Mưu kế của quân sư thật hợp ý ta, quả là tinh vi, gió mây biến ảo, quỷ thần cũng không lường trước được. Chỉ một lần hành động mà thu được công to. Có điều là khi lệnh mới phát ra ta biết các tướng có ý nghi ngờ, chỉ thi hành một cách miễn cưỡng mà thôi, có ngờ đâu giành được thắng lợi như ngày hôm nay!

Các tướng nghe xong đều đứng dậy chắp tay thưa rằng:

- Bọn thần vốn tuân theo lệnh chỉ của chúa thượng sai cầm quân đóng giữ để làm kế cố thủ không dám xuất quân. Nhờ có mật lệnh quả quyết sáng suốt của nguyên súy mới thành công lớn. Kinh thư nói: “Thành ở quản quyết, bại vì do dự”. Nguyên súy khác nào Đường Thái Tòng, Tống Thái Tổ ngày xưa sống lại!

Nguyên súy Hiệp Đức khiêm tốn nói:

- Ta trên nhờ có hoàng thiên phù trợ và phúc lớn của phụ vương, giữa nhờ có mưu hay của quan đốc chiến cùng là sự anh hùng dũng cảm của chư tướng các ông, dưới nhờ có ba quân hùng tráng, tướng sĩ hòa hiệp một long, cho nên đánh lớn ngày hôm nay mới thu công thắng lợi vẹn toàn. Ta nào có tài năng gì đâu!

Nguyên súy Hiệp Đức nói xong mọi người cùng vui vẻ cạn chén. Rồi công tử Hiệp Đức sai người về triều báo tin thắng trận. Chúa Hiền nghe xong cả mừng, bảo với các tướng tại triều:

- Hiệp Đức gan to chí lớn, kiến thức độ lượng hơn người. Chỉ vì trước đó ta đã xuống lệnh không cho đem quân ra ngoài lũy nên chứa dám hành động. Ấy là do ta còn coi nhẹ thực tình của ba quân. Biết tài hùng dũng đảm lược thì phải xét khi quyết đoán thời cơ. Thấy gọi là gió to mới biết cỏ cứng, nước ngược mới thuyền nhẹ. Nay Hiệp Đức cùng Chiêu Vũ một lòng, cất quân một lần phá tan địch lớn. Thế mới gọi là tướng có tài.

Các tướng đều lạy mừng, tiếp nhau xưng tụng mãi không ngớt. Rồi đó Hiền vương sai văn chức ở ty tướng thần lại là Diễn Phái đem vàng bạc tiền lụa đến các đạo ban thưởng cho các tướng, khao thưởng úy lạo ba quân, xuất ba trăm hốt bạc để chia thưởng theo thứ bậc khác nhau; lại truyền cho công tử Hiệp Đức đem quân trở về.

Bấy giờ là hạ tuần tháng tư, công tử Hiệp Đức đem quần về triều. Chỉ thấy:

Tiếng nhạc vang vang, hậu ủng tiền hô răm rắp.

Ngựa chiến vó dồn, yên cương thẳng tắp.

Một chuyến dươi oai sông biển lặng

Ba quân cùng xướng khải hoàn ca.

Ngày hôm ấy nguyên soái Hiệp Đức truyền lệnh cho ba quân thắng lợi trở về, chẳng mấy ngày các đạo quân đã về đến chính điện Phú Xuân. Các tướng cùng vào triều bái yết. Hiền vương cả mừng an ủi rằng:

- Ngờ đâu ngày nay lại được thấy phong độ của công tử nhà Đường! Cần nhất là phải có dũng cảm quả quyết, biết lo tính cao xa, hợp trời thuận người. Kinh thư nói: “Trong là con hiền, ngoài là tôi trung”, ấy là của đại báu của quốc gia. Vậy các khanh quả là trung hiếu vẹn toàn, có thể nói là những bậc hào kiệt thời nay. Giờ đây chỉ mới một trận đánh mà bọn quận Phú cả hai phải trốn về, họ Trịnh từ nay về sau đều phải run tim rụng mật, không dám coi thường quân ta nữa.

Nói đoạn Hiền vương sai lấy vàng đỏ một trăm lạng bạc trắng một nghìn lạng ban thưởng thêm để đền đáp kỳ công thắng trận. Công tử Hiệp Đức lạy tạ thưa:

- Thần trên nhờ có oai trời của vương phụ, giữa nhờ có diệu kế của Chiêu Vũ, các tướng hiệp sức đồng long tỏ rõ anh hùng dũng mãnh, dưới dựa vào ba quân hùng tráng, sĩ tốt tinh nhuệ mới có được công lớn ngày nay. Chỉ riêng một mình thần nào có tài năng chi! Thần đâu dám nhận riêng hậu thưởng.

Hiền vương cười đáp:

- Ngày xưa nói: “Kẻ có đức không kiêu, kẻ có công không khoe”, ấy là đạo của người quân tử. Nhưng người có công thì đáng nhận mức thượng thưởng, khanh hà tất phải chối từ.

Công tử Hiệp Đức vái tạ nhận thưởng rồi ra khỏi triều. Các tướng văn v đến lạy mừng.

Cũng trong năm này, tiết chế Thuận Nghĩa, trấn thủ Phù Dương, đốc chiến Chiêu Vũ đích thân đi xem xét cầu Mũi Nạy địa thế xã Trấn Ninh. Rồi đó các tướng sai người viết tờ khải dâng lên triều đình xin cho đắp lũy ở xã Trấn Ninh để bảo vệ cửa biển, cùng với lũy Động Cát làm thành thế ỷ dốc[522] để sẵn sàng cố thủ. Hiền vương xem xong biểu văn phê chuẩn cho thi hành.

[522] Thế dựa cậy lẫn nhau.

Các tướng cầm quân ba đạo vâng theo lệnh chỉ từ trung tuần tháng chín khởi công đắp lũy, chỉ sau mấy tháng là xong. Hiền vương biết tin vui mừng khôn xiết, truyền cấp tiền bạc ban thưởng trọng hậu cho tướng sĩ ba đạo. Từ đó quân đôi bên Nam Bắc dừng binh không động, thiên hà được thái bình. Tháng mười hai năm ấy[523] vua Lê ở Bắc triều mất. Tây Định vương Trịnh Tạc cùng các quan tại triều tôn lập hoàng trưởng tử Lê Duy Vũ[524] lên ngôi, đổi niên hiệu là Cảnh Trị, đại xá thiên hạ, thăng thưởng trăm quan, truy tôn miếu hiệu cho các vị tiên hoàng đế[525].

[523] Tức năm Nhâm Dần, niên hiệu Thịnh Đức mười (1662) đã nói ở trên.

[524] Bản chép A24 chép là: Lê Duyình, có thể là chép nhầm.

[525] Tức vua các triều trước (đã chết).

Năm Quý Mão, niên hiệu Cảnh Trị thứ nhất (1663), ở Nam Triều, chú Hiền vương Nguyễn Phúc Tần thấy trong niền vô sự, rộng đường thi hành đức chính, vỗ về yên trị muôn dân, nhẹ lao dịch, giảm thuế khóa, việc công thưa giãn, hình phạt khoan dung, sửa sang việc văn, giảng tập việc võ để làm kế gìn giữ lâu dài.

Tháng năm, Hiền vương ngự triều. Chúa tức giận nhớ chuyện năm trước bọn quân Đăng ở Bắc triều đem quân vào quấy nhiễu bờ cõi, cho thủy quân đóng ở ngoài khơi cửa Nhật Lệ, vương sai thủy quân ra đánh đuổi, nhưng vì tài bắn chưa tinh nên không thắng được. Vì vậy vương muốn noi theo phép cũ của tiên vương trong việc luyện tập thủy binh. Hiền vương bèn xuống lệnh đến địa phận xã Hoằng Phúc đắp lại cồn bắn cũ cho cao hơn ba mươi thước, bề mặt rộng hơn một trăm ba mươi thước, trước cồn dựng bia để tập bắn.

Tháng sáu, Hiền vương lệnh cho quân nội thủy dàn chiến thuyền để quân sĩ luyện tay chèo, tập bắn sung cho tinh thạo. Quân nhân nào bắn giỏi trúng tâm bia thì được thưởng tiền bạc các mức khác nhau, ai bắn hỏng mất đạn thì phải theo vết tích mà tìm lại, nếu không tìm được thì phải chịu phạt và bồi thường tùy theo số cân lạng của từng viên đạn. Từ đó phép quân được chỉnh đốn, mọi việc thưởng phạt được công minh xác đáng, ba quân đều hân hoan vui mừng.

Thấy quân sĩ đã tinh thông phép bắn, Hiền vương mừng vui khôn xiết, chí muốn khôi phục kinh đô Thăng Long để làm rạng rỡ cho các đời chúa trước, được vinh hiển với xứ sở quê[526] hương để thỏa chí nguyện bình sinh.

[526] Họ Nguyễn vốn gốc ở trang Biện Thượng, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa.

Ngày mười sáu tháng chín có nguyệt thực, mặt trăng bị che kín toàn phần, ánh sắc nửa đen nửa đỏ, khoảng hai giờ sau mới trở lại hình tròn. Một ngày vào tháng chạp, bầu trời quang đãng, bỗng từ phía tây nam đùn lên một đám mây đen, liền đó nổi cơn lốc mạnh gẫy cây đỏ nhà, cát bay đá chạy, tường sụp ngói tan, thuyền bè trên sông biển phần nhiều bị chìm vợ, người và gia súc chết đuối khá nhiều. Chừng khoảng một giờ thì gió tạnh, trời lại trong xanh, người ta đổ ra đi lại ùn tắc các ngả đường, chưa biết điềm lành, điềm dữ ra sao.

Năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Trị hai (1664), tháng hai, trấn thủ đạo Lưu Đồn là Hổ uy đại tướng quân tiết chế Thuận Nghĩa vì tuổi già sức yếu, cảm thấy trong người không được khỏe bèn sai người đem tờ khải dâng lên Hiền vương xin được về làng dưỡng bệnh. Hiền vương bèn triệu hội các quan văn võ để xét định. Vương hỏi các tướng:

- Thuận Nghĩa dân khải xin về nghỉ dưỡng bệnh. Các tướng bàn định xem nên chọn ai xứng đáng thay thế trấn giữ biên thùy để bảo vệ cương giới.

Chưởng doanh Yên Vũ nói:

- Hiểu con không ai rõ bằng cha. Biết rõ bề tôi không ai bằng quân thượng. Nay thánh thượng thấy trong số các quan ai là kẻ có tài trí dũng lược, trong khoảng hơn năm, sáu năm ở Nghệ An bày mưu định kế, cắt cử điều khiển công việc ba quân đều vui, trăm họ mến đức thì nên cất nhắc để y thác trách nhiệm lớn. Huống chi đạo Lưu Đồn là nơi trọng yếu, tướng trấn thủ ở đó cũng có quyền hạn như một vị nguyên súy, thần thiết nghĩ phi Chiêu Vũ thì không ai xứng đáng bằng. Đó là ngu ý của thần, muôn trông thánh thượng minh xét.

Các tướng đều đồng thanh nói lớn:

- Lời nói của Yên Vũ phải lắm!

Hiền vương cả mừng, liền sai văn chức ở ti tướng thần lại là Tài Trí ra đạo Lưu Đồn truyền lệnh đặc ban cho tiết chế Thuận Nghĩa về nghỉ ở trấn dinh cũ. Lại sai văn chức ti tướng thần lại là Văn Cảnh đem sắc chỉ gia phong cho đốc chiến Chiêu Vũ thăng chức chưởng doanh tạm quyền chức tiết chế trấn thủ đạo Lưu Đồn. Lại chuẩn cho cai cơ ở chính doanh là Hùng Uy thăng chức chưởng cơ trấn thủ dinh Bố Chính.

Hai tướng đều vâng mệnh đến dinh trấn thủ lo việc sửa sang thành trì huấn luyện sĩ tốt, giảng dạy binh pháp để mưu đồ khôi phục lại Trung đô. Từ đó quân lính không phải vất vả các việc loa dịch, dân chúng được yên ổn làm ăn, tiếng vui ca rộn rã khắp đường làng ngõ xóm.

Bây giờ Hiền vương thảnh thơi ngự triều ở chính phủ, thấy con sông nhỏ chảy xế bên Xướng Đình dòng nước chảy ngược về phía bên trái. Vương muốn đắp tắc sông nhỏ ấy để khỏi bị xói lở hư hại. Đến tháng chín, vương xuống lệnh cho các huyện Hương Trà, Phú Vang, Quảng Điền đắp đê bối để làm cánh thành ở xã Vi Dã, đắp tắc sông nhỏ ở góc gần Xướng Đình để khỏi bị xói lở và tiện việc đi lại. Hơn một tháng đê bối đắp xong, người qua kẻ lại đều khen là thuận tiện.

Năm Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Trị thứ ba (1635), Hiền vương muốn tăng cười vũ bị để làm mạnh quân uy bèn xuống lệnh truyền cho các văn thần võ tướng phải sửa sang binh khí giáp mã cho sắc nhọn, hẹn đến thượng tuần tháng tư các quan văn võ ba ti thuộc dinh Chính, dinh Cựu và dinh Quảng Nam cùng các lại viên quận hương thuộc các huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang, Vũ Xương, Hải Lăng phải có mặt ở ao Cồn Nổi trong phủ chúa để đợi sát hạch. Các quan văn võ các doanh quận hương thuộc các huyện MInh Linh, Khang Lộc, Lệ Thủy, Bố Chính thì sửa sang giáp mã binh khí, đợi quan ở chính doanh đến sát hạch. Từ đó ai nấy tuân hành mệnh lệnh, chỉnh đốn việc phòng bị không dám làm trái. Đến kì kiểm tra, chúa cưỡi ngựa long tuấn đi xem xét xong, người nào thực hiện tốt đều được trọng thưởng vàng bạc tiền lụa có thứ bực khác nhau, kẻ làm xoàng thì bị phạt tùy theo phẩm trật. Mọi nguời kính phục ca tụng

Hiền vương là bậc chúa thánh minh. Chúa lại ra lệnh cho thần và lại viên ba ti phải tập cưỡi ngựa bắn cung, người nào bắn trúng bia thì được thưởng bạc để biểu dương, bắn rơi tên sau ngựa thì bị phạt một quan tiền. Người ta đều gắng chí tập luyện tinh thần các môn bắn cung cưỡi ngựa. Khi có người bắn trúng bia thì đám đông đánh chiêng reo hò khen ngợi, người thì được nhận phần thưởng của chúa. Từ đó người trong nước đều tinh thông phép cưỡi ngựa bắn cung, không mũi tên nào bắn không trúng đích.

Hạ tuần tháng sáu có nước to gió lớn, nước dâng ngoài cánh thành làm sụt lở một góc đê bối. Hiền vương ra lệnh đắp sửa, tôn bề mặt rộng đến hai trượng cho thật chắc vững. Một hôm chúa rỗi việc đi chơi thấy chùa Canh Tý, niên hiệu Hoằng Định thứ nhất (1600), chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) trở về lập đô ở Phú Xuân đã cho tu tạo. Nay cảnh chùa tiêu sơ đổ nát, Hiền vương xuống lệnh cho trùng tu, quan năm sau mở đại hội khánh thành.

Tháng mười, ngày mồng tám, vào giờ Tý, giữa lúc trời quang mây tạnh, thời tiếp ấm áp bỗng mây đen che phủ, sấm chớp đầy trời, gió to ào nổi cuốn tung đất đá, rồi mưa to ập xuống như trút nước suốt từ giờ Thân đến giờ Mão, cơ hồi sập mái đổ tường. Nước dâng mênh mông khắp nơi, người và vật bị cuốn trôi theo dòng nước, nhà cửa bị sóng xô đổ ào. Đến giờ Thìn ngày mồng mười nước lũ mới rút hết, thấy đên bối bị nước cuốn phăng, nơi miệng đê bị xói sâu đến năm thước. Mới hay rằng vụ trụ đã an bài, núi sông đào đắp đều đã do tạo hóa xếp định từ trước, không phải do sức người mà có thể làm ra được.

Hiền vương biết ý trời như vậy bèn bãi bỏ việc đắp đê bối. Từ đó về sau những việc tai dị giảm hẳn, hàng năm thường được mùa, dân chúng sung túc no đủ, có cảnh tượng của đời thái bình. Người đời sau có thơ rằng:

Trời đất sơ khai tiết khí thuần,

Chim muông cây cỏ thảy đua xuân.

Sân triều đứng chật quan văn võ,

Non biển bày phô cảnh tuyệt trần.

Muôn thủa an bài nền vững chắc,

Một thời khai phá thấy thanh tân.

Sông dài núi rộng do tạo hóa,

Nhân lực làm sao thắng quỷ thần.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3