Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 26 - Phần 1

HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU

Quân Tây Định áp sát lũy Trấn Ninh

Tướng Hoằng Phương giải vây núi Mật Cật.

Lại nói năm Nhâm Tý, niên hiệu Cảnh Trị thứ mười (1672), tháng hai, Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, nhân lúc nhàn hạ cho gọi con trai, con gái xã Hạ Lang đến trước gác Quyển Bồng chia nhau làm trò mua vui như đánh cờ người, đá quả cầu, đánh đu tiên, đáng kể là ngày hội lớn. Bấy giờ các quan văn võ, dân chúng già trẻ, gái trai bồng con bế cháu cùng đi, người trẩy hội đông không kể xiết.

Rồi Hiền vương cho bãi các trò vui đùa, truyền cho quân nội bộ và quân ngoại thủy chia làm hai bên tả hữu. Quân nội bộ đứng bên phải, quân ngoại thủy đứng bên trái, mỗi bên một thuyền cầm đầu dây, nghe ba tiếng trống thì quân đôi bên ra sức kéo dây, thuyền nào thắng thì được thưởng năm quan tiền. Thế là quân sĩ ra sức kéo, không phân thắng bại. Bỗng chốc sinh ra tranh giành, quân sĩ vứt dây ôm nhau mà vật, cùng lúc đến hơn hai chục người. Hiền vương thấy vậy thích thú cười vang, bèn truyền thôi trò kéo dây, cho thi vật nhau, cùng lúc đến năm sáu người. Bấy giờ quân nội bộ ở trên thuyền Hoàng Kiếm, có tên quân sĩ tên là Đăng Kiếm được giải nhất, không ai địch nổi. Vương bèn thưởng cho mười quan tiền và một tấm lụa để nêu danh. Từ đó trẻ chăn trâu các nơi thường tụ tập thi nhau kéo dây, đấu vật, đẽo gỗ làm đao kiếm, làm cờ xí, chia quân dàn trận đánh nhau làm trò vui. Xem đó mới biết như thế.

Ngày mồng một tháng tư, có nhật thực, từ giờ Tỵ đến giờ Mùi ánh sáng mới trở lại như cũ. Ngày mười sáu lại có nguyệt thực toàn phần, sắc mặt trăng nửa đen nửa đỏ từ giờ Tuất đến giờ Sửu mới sáng lại như trước. Đến ngày mười hai tháng năm, trấn thủ doanh Bố Chính là Triều Tín trước đã sai người đi do thám tin tức ở Đàng Ngoài, nay trở về báo tin:

- Bọn tiểu tốt chúng tôi vâng lệnh tìm đường ra đến Trung đô, dò biết chúa Tây Định tức giận việc năm trước quân ta mắng nhiếc sứ giả, định đem quân vào đánh Đàng Trong nhưng có văn thần là Thông quận công bày mưu, Tây Định nghe theo đã sai người sang cầu thân với các nước Ô Lan, Nhật Bản để nhờ họ huấn luyện chiến pháp cho quân sĩ. Vào khoảng tháng ba, Tây Định đã sai quân vận chuyển lương thảo đến chứa ở hai nơi là Dinh Cầu và ở điện Phù Lộ phía bắc sông châu Bố Chính. Cho đào kênh Ròn để khai thông đường thủy. Lại cho quân đến núi Câu Vanh ở xã Kim Linh thượng chặt loại gỗ nhẹ và tre nứa chuyển về chất thành đống cao như núi ở hai xã An Bài và Thổ Ngõa để sẵn sàng bắc cầu phao cho quân qua sông Gianh. Truyền lệnh điểm mười tám vạn quân, rước vua Lê đi đánh, Tây Định đích thân làm nguyên súy quân bộ, thiếu bảo Phú quận công Trịnh Căn làm nguyên súy thủy quân, dốc quân cả nước kéo vào chiếm đất phía Nam.

Trấn thủ Triều Tín nghe bảo liền truyền lệnh cho tướng sĩ bản doanh sửa soạn quân nhu, voi ngựa để cự địch, một mặt sai quân phi báo cho các doanh khác cùng biết. Lại sai người về triều bẩm với Hiền vương việc Bắc triều chuẩn bị quân binh như thế.

Hiền vương nghe báo chỉ phất tay áo, cười nói:

- Tây Định là kẻ sất phu, không nhớ bài học thất bại năm trước, nay lại dám đặt điều xúc xiểm thiên tử dấy quân vào quấy nhiễu cõi ta lần nữa!

Nói xong vương liền triệu triều thần văn võ vào phủ bàn định. Hiền vương nói:

- Nay bọn Tây Định lại ép thiên tử dấy quân vào xâm lấn cõi ta, vậy các tướng hãy cùng nhau bàn xem nên cử tướng nào làm nguyên súy nắm quyền cầm quân đi chặn địch, quyết bắt cho được họ Trịnh, phá tan ổ chuột của chúng ở Trung đô.

Bấy giờ chưởng doanh Yên Vũ và các tướng thưa rằng:

- Chinh chiến là việc lớn của quốc gia, chức phải chọn được người trí mưu toàn tài, ân uy gồm đủ, có thế chư tướng mới dốc lòng, ba quân đều kính mộ, nếu không phải là người thân trong vương tộc thì không thể ủy nhiệm được. Bọn thần thấy công tử Hiệp Đức tuy còn ít tuổi nhưng tài đức kiêm toàn, có mưu lược kinh vĩ cứu nước giúp đời, mọi người đều tuân kính yêu mến, tất nên ủy nhiệm trọng chức đánh bại Bắc quân.

Hiền vương cả mừng, bèn phong cho công tử Hiệp Đức làm nguyên súy, vệ úy Phú Lĩnh[536], kí lục Xuân Đài[537] làm tham mưu, các văn chức ở ti tướng thần lại là Minh Tiến, Văn Cảnh, Văn Vinh, Văn Học và viên vũ lược tên là Cường cùng đi. Lại sai phò mã chưởng cơ Đức Kiên[538] và Tiến Đức[539]làm tả hữu tiên phong, chọn ngày xuất quân đi cự địch, vương đích thân đem đại quân đi sau tiếp ứng. Lại sai hai viên ở ti tướng thần lại là cai hạp Trường Lộc tử đến kho Lai Cách, cai hạp Văn Giang tử đến hai kho Yên Tranh, Trường Dục vận chuyển lương thực phân phát cho ba quân, theo như cách làm của Tiêu hà đời Hán.

[536] Phú Lĩnh: tên tước của vệ úy Mai Nhuận.

[537] Xuân Đài: Kí lục Vũ Phi Thừa.

[538] Đức Kiêm: chưởng cơ Trương Phúc Cương.

[539] Tiến Đức: chưởng cơ Nguyễn Đức Bảo.

Bọn công tử Hiệp Đức lạy tạ vâng mệnh ra khỏi triều, cùng các tướng chọn ngày hai mươi hai tháng bảy sẽ xuất quân.

Đến ngày ấy, chỉ thấy:

Binh uy răm rắp, nhuệ khí bừng bừng.

Kiếm kích như mây dồn mù đọng, cờ xí tựa phất tuyết bay sương.

Voi ngựa đi tắc đồng nghẽn núi, chiến thuyền dàn kín biển đầy sông.

Ngời người hùng tráng, ai nấy oai cường…

Thừa sức giữ yên Nam giới, quét giặc Bắc phương.

Chẳng bao lâu quân đến phủ Tân Thắng ở xã Thạch Xá thuộc Quảng Bình chia quân dựng đồn đóng trại. Ngày hôm sau nguyên súy Hiệp Đức cho mời tiết chế Chiêu Vũ, trấn thủ Mỹ Thắng, Thuần Đức, tham tướng Tài Lễ cùng các tướng chỉ huy quân các đạo đến bàn định việc quân.

Nguyên súy Hiệp Đức đứng dậy khoanh tay nói:

- Tiểu sinh tài thưa học cạn, kém trí ít mưu, được thánh thượng ủy thác quyền chức nặng nề, trộm nghĩ sợ không kham nổi. Rất mong các ông cùng đồng lòng hiệp sức trừ giặc ác khuông phò vương thất. Nay giặc Trịnh đem quân xâm phạm bờ cõi, các ông hãy sớm bày mưu định kế để quét diệc quân giặc, lập công bình định để rạng mặt hào kiệt xứ Nam. Đấy là lời tim phổi của Hiệp Đức tôi. Các ông có điều gì cứ nói, xin đừng ngần ngại.

Bấy giờ tiết chế Chiêu Vũ cùng các tướng đều đứng cả dậy, chắp tay vái mà nói rằng:

- Bọn thần đội ơn thánh thượng bao dung, nếu có chút ít tài năng nguyện xin dốc sức trâu ngựa để đền ơn thánh thượng, đâu dám che giấu điều gì không nói. Có điều là bọn thần nghe rằng phen này chúa Trịnh dốc quân cả nước kéo vào đây, thế lực mạnh lớn, chứ không phải như bọn quận Phú, quận Đương trước đây có thể sánh được. Nay nguyên súy thân nhận vương mệnh đã trù tính ở chốn miếu đường, cầm quân đến đây để bọn thần được hợp sức chặn địch, bọn thần chưa biết chủ kiến của nguyên súy đánh giữ ra sao nên cũng khó tính liệu. Xin nguyên súy xét rõ, sớm phát hiệu lệnh chỉ thị để bọn thần có sở cứ, ai nấy tuân lệnh mà làm thì mới khỏi lầm lỡ.

Nguyên súy Hiệp Đức nghe xong, lại khiêm tốn nói:

- Hiệp Đức tôi tuy làm nguyên súy, nhưng tuổi đời còn ít, chưa từng xông pha chiến trận. Các tướng quân lâu năm theo việc binh, tình hình quân giặc hư thực thế nào đều hiểu rõ. Huống chi các vị lại là các bậc tuổi tác cao niên, mưu lược liệu địch, đặt kỳ tất giỏi hơn Hiệp Đức tôi nhiều lắm. Xin các ông cứ bày tỏ hết những điều hiểu biết uẩn súc của mình, tiểu sinh sẽ liệu bề châm chước, ngõ hầu làm tròn đại sự của quốc gia. Mong các ông chớ nên cố từ.

Các tướng nói:

- Không dám! Không dám! Xin nguyên súy sớm phát hiệu lệnh, bọn thần sẽ theo đó tuân hành để phép quân được sáng tỏ.

Rồi đó nguyên súy Hiệp Đức bèn hạ lệnh, điều quân khiển tướng. Lệnh cho tiết chế Chiêu Vũ đem quân dàn trận ở Lũy Cát và giữ bãi Trường Sa bên bờ biển; trấn thủ Quảng Bình là đại tướng Mỹ Thắng đem quân đến giữ Chính lũy, trên từ Khe Cự, dưới đến Hói Tráng; trấn thủ Cựu Dinh là Thuần Đức đem quân đến giữ lũy Đòn Võng; tướng tiên phong là chưởng cơ Đức Kiêm và Tiến Đức, cai hội Hoằng Tín, tham mưu Xuân Đài đem quân đến giữ thành Trấn Ninh; cai cơ Thuận Trung đem quân đến giữ cầu Mũi Nậy và đài Mũi Thóc; tham tướng Tài Lễ đem chiến thuyền đến Hãn Nội, dàn ở hai bên để giữ cửa biển Nhật Lệ. Lại sai người truyền lệnh cho trấn thủ Triều Tín ở doanh Bố Chính cấp tốc sai quân hộ vệ dân chúng bản châu vào cả trong lũy, tất cả già trẻ trai gái không để sót một ai, sau đó đem quân vào giữ lũy Động Hồi ở chỗ núi Đâu Mâu. Các tướng ai nấy tự chia quân đi đóng giữ nghiêm ngặt, nghe hiệu lệnh mà thi hành, không được trễ nãi. Nếu trái lệnh sẽ trừng phạt theo phép quân không tha thứ.

Các tướng tuân lệnh ra khỏi trướng nguyên súy, nói riêng với nhau, ai nấy đều khen ngợi: “Nguyên súy truyền phát hiệu lệnh nghiêm minh, cắt đặt gọn gàng đầy đủ, quả là bậc tướng có tài.” Sau đó các tướng đem quân đi đóng giữ các nơi như lệnh định, ai nấy đều lo chỉnh đốn khí giới, quân nhu sẵn sàng đánh địch.

Lại nói chuyện ở Bắc triều, Tây Định vương Trịnh Tạc tức giận người của Nam triều lăng nhục sứ giả, đã truyền lệnh chỉnh đốn binh mã, liền sai đô đốc Hào Man Lê Thi Hiến làm tiên phong, Tây Định đích thân làm nguyên súy, rước vua Lê ngự giá cầm quân đi tiếp ứng. Lại sai thiếu bảo Phú quận công Trịnh Căn làm nguyên úy thủy quân. Quân thủy bộ tất cả có mười vạn, nói phao lên là có mười tám vạn. Chọn ngày hai mươi tám tháng sáu đem quân xuất phát, tiến vào phía Nam.

Chỉ thấy:

Xe loan chuyển bánh, thiên tử khởi kinh,

Quân hổ bí tiền hô hậu ủng, phất phơ hình hổ báo trên cờ.

Đội long nhương tả dực hữu phù, cuồn cuộn lưng rắn rồng giữa phướn.

Trống khuya sừng thúc vang trời đất, chiêng rung phèng chát dậy non sông.

Kiếm kích lòa buốt sương, ngựa voi đi đầu núi.

Dập dờn cuồn cuộn như sóng biển dâng trào, ùn ùn lớp lớp tựa mây dồn mưa dập.

Đúng là hoàng đế hành quân, hàng ngũ thật chỉnh túc.

Trung tuần tháng bảy quân Trịnh đến châu bắc Bố Chính dàn quân đóng trại ở phía bắc sông. Đến trung tuần tháng tám Tây Định vương hạ lệnh phát binh qua sông Gianh tiến vào địa giới xứ Nam. Quân tiên phong đóng ở xã Đông Cao. Chính binh đóng ở bờ sông Thanh Hà. Do thám của quân Nam trở về báo tin với trấn thủ Triều Tín Triều Tính liền sai cai đội Hoằng Lộc đem quân đến các nơi từ đầu núi ra đến biển hộ vệ dân chúng bản châu, tất cả già trẻ, trai gái đều vào cả trong lũy để khỏi bị quân Trịnh nhiễu hại. Một mặt sai người vào triều bẩm báo và trình lên nguyên súy.

Bấy giờ trấn thủ Triều Tín chia quân đóng giữ thành trì nghiêm ngặt để phòng ngự. Đến ngày mồng ba tháng chín, Tây Định rước vua Lê bà dẫn quân qua sông Gianh, tiến thẳng đến trước lũy của quânNam ở doanh Bố Chính. Quân hai bên đóng trại đối nhau. Trấn thủ Triều Tín đem quân chặn địch, đánh lớn một trận. Nhưng vì quân ít không địch nổi, Triều Tín phải cho quân lui vào Chính lũy ở núi Động Hồi. Quân Trịnh thừa thắng đuổi theo. Tướng tiên phong Hào Man Lê Thi Hiến dẫn quân tiến thẳng đến đóng từ xã Chính Thủy đến đầu núi, sai quân đắp lũy đào hào, dựng trại. Tây Đinh vương đem quân vào đóng trong doanh Bố Chính, chia quân giữ chặt các ngã đường trọng yếu từ bờ biển lên các xã Phú Xá, Trấn Ninh, sai quân vào các làng sục sạo bắt người cướp của. Có khi bắt được dân Đàng Trong, bất kể già trẻ, trai gái, bọn họ đều lấy sọt cứu hỏa khoét lỗ ở đáy rồi chụp vào cổ mà quay, máu me chảy lênh láng, dân chúng kêu khóc vang động gần xa. Tra khảo để lấy của cải lại càng thảm khốc hơn nữa.

Tây Định lại sai các đạo quân xây đắp thành lũy từ núi ra đến biển để làm kế lâu dài. Truyền lệnh cho nguyên súy thủy quân Phú quận công đem thuyền trường xà và chiến thuyền, tất cả hơn tám trăm chiếc đến đậu ở sông Gianh để sẵn sàng đánh vào bãi cát Trường Sa, đến cửa biển Nhật Lệ thì cho quân bỏ thuyền lên bộ đánh vào sau lưng quân Nguyễn. Sai tham đốc Thắng quận công đem hơn ba mươi chiến thuyền đến đóng chỗ ngôi miếu ở cửa biển Nhật Lệ đế tiếp ứng cho quân bộ. Sai phò mã Hương quận công đắp đài súng ở xứ Cồn Mắm thuộc xã Trấn Ninh đặt súng lớn để bắn gãy cầu Mũi Nậy làm cho quânNam không đi lại qua sông được.

Bên quân Nam, nguyên súy Hiệp Đức dò biết được kế sách tiến binh của bên Trịnh, bèn chia quân nghiêm ngặt đánh giữ các thành trì. Lại sai tham tướng Tài Lễ đắp đài súng ở trong thành Trấn Ninh, đặt đại bác ở cầu Mũi Nậy để đối chọi với đài súng của quân địch.

Từ đó quân hai bên Nam, Bắc đều giữ thế cố thủ.

Lại nói nguyên súy Hiệp Đức từ khi vâng mệnh đem quân đi đánh giặc đã hơn hai tháng, chỉ dùng đàn ông làm người hầu phòng ngủ trong trướng, không dùng đàn bà con gái. Có viên cai đội người vùng ấy là Bật Nghĩa có con gái yêu kiều, xinh đẹp dò biết chuyện ấy, bèn nhờ người đem con gái tiến vào trong trướng để hầu hạ khăn lược. Hiệp Đức trông thấy liền nổi giận mắng:

- Ta chỉ muốn dẹp tan quân giặc, sao người dám đem nữ sắc đến câu ta? Ta vốn không có lòng ấy, lẽ ra phải mổ bụng ngươi để cảnh cáo người khác. Chỉ thương người nghèo đói muốn sống nổi tấm thân nên đến nổi phải như thế.

Nói đoạn sai người cho mười quan tiền rồi đuổi đi. Người con gái ấy thẹn thùng kinh sợ trốn về. Bật Nghĩa thấy vậy sợ hãi khôn xiết. Người ngoài biết chuyện đều chê là tham lam.

Lại nói ngày năm tháng chín năm ấy, Hiền vương ngự ở chính điện, triệu hội quần thần bàn việc đối phó với quân Bắc. Trấn thủ doanh Bố Chính sai người về thưa rằng:

- Hoàng đế Bắc triều và chúa Tây Định đem mười tám vạn quân vào xâm phạm bờ cõi, đóng quân ở Bố Chính, thả quân đi cướp bóc dân chúng.

Hiền vương hỏi các quan văn võ:

- Nay Tây Đinh đem mười tám vạn quân vào xâm lược bờ cõi. Quân chúng đông, quân ta ít, các khanh có cách gì chống giặc?

Cai cơ nội tả là Minh Lễ[540] thưa:

- Quân Bắc tuy đông nhưng như đàn sẻ bầy quạ. Quân ta tuy ít nhưng đều là quân tinh nhuệ hùng tráng, một người có thể địch được mười người. Vả chăng trong địa giới của ta có hào sâu lũy cao, nước giàu lương đủ thì việc gì phải sợ quân chúng đông người? Người xưa từng nói: “ Một người giữ chỗ hiểm, nghìn quân không địch nổi”. Huống chi binh pháp có câu: “Đánh thành là tai họa của binh gia.” Nay quân Trịnh đang giữa tiết thu đông phát quân tiến vào cõi ta, nhưng ở chỗ Khe Cự là vùng khí độc. Nếu gặp mưa gió bão lụt thì phía trong cao, phía ngoài thấp, khí độc bốc lên làm hại quân chúng. Nếu lại ăn uống phải nước độc thì thiệt mạng. Bên ta không phí một mũi tên hòn đạn mà giành được toàn thắng. Ấy là vì họ Trịnh không hiểu thiên thời, không biết địa lợi. Quân ta nên đóng giữ nghiêm ngặt, tránh giao phong với bọn chúng. Chỉ trong vài tháng quân Trịnh hết lương tất phải tháo chạy về Bắc. Ta thừa thế tung quân đuổi theo, chỉ một hồi trống công lớn.

[540] Minh Lễ: tên tước của cai cơ nội tả Tống Đức Minh.

Các tướng đều đồng thanh nói:

- Kế ấy rất hay. Xin thánh thượng truyền lệnh cho các đạo quân ở chiến trường cứ theo thế mà làm.

Hiền vương nghe xong trầm ngâm nghĩ ngợi hồi lâu, rồi nói:

- Kế ấy rất hay, chỉ hiềm quân ta tự biết quân mình ít mà quân Bắc đông thì trong lòng không tránh khỏi lo sợ.