Trăng lạnh - Phần I - Chương 05 - Phần 1
CHƯƠNG 5
Thi thể của Teddy Adams đã được đưa đi, cả những thân nhân đau buồn nữa.
Lon Sellitto vừa rời khỏi hiện trường để đến chỗ Rhyme. Hiện trường đã được chính thức giải phóng. Ron Pulaski, Nancy Simpson và Frank Rettig đang dỡ dải băng vàng.
Vẫn đau nhói bởi vẻ hi vọng đến tuyệt vọng của cô cháu gái Adams, Amelia Sachs đi xung quanh hiện trường lần nữa với sự kiên trì thậm chí hơn mức bình thường. Cô kiểm tra các cửa ra vào khác và các lối có thể ra vào, cũng như lộ trình bỏ trốn mà đối tượng có thể đã sử dụng. Nhưng cô không tìm thấy gì thêm. Bao lâu rồi cô chưa gặp một tội ác phức tạp mà lại cung cấp ít chứng cứ như thế này.
Sau khi đóng gói xong các thiết bị, tâm trí Sachs quay sang với vụ Benjamin Creeley và cô gọi cho vợ ông ta, Suzanne, để bảo bà ta là hai người đàn ông đã đột nhập ngôi nhà ở Westchester của họ.
“Tôi không biết việc đó. Cô có biết chúng lấy cắp những gì không?”
Sachs đã gặp người phụ nữ ấy vài lần. Bà ta rất gầy – vì bà ta đi bộ hàng ngày – và có mái tóc bạc cắt ngắn, gương mặt đẹp. “Có vẻ không mất mát nhiều.” Cô quyết định không nói tới cậu bé hàng xóm, cô nghĩ cô đã làm cậu ta hoảng sợ mà khai báo thành thật rồi.
Sachs hỏi liệu ai đó đã đốt cái gì trong lò sưởi chăng, và Suzanne trả lời rằng gần đây không ai đến đấy cả.
“Theo cô đã có chuyện gì?”
“Tôi không biết. Nhưng nó khiến việc tự tử xem ra đáng ngờ vực hơn. Ồ, với lại, bà cần có khóa mới cho cái cửa hậu.”
“Hôm nay tôi sẽ gọi người lắp… Cảm ơn cô. Nó rất có ý nghĩa khi cô tin tôi. Rằng Ben không tự tử.”
Sau cú điện thoại, Sachs điền một tờ đơn đề nghị phân tích chỗ tro, bùn và các chứng cứ khác tại ngôi nhà của gia đình Creeley, đóng gói các chứng cứ này riêng rẽ với các chứng cứ trong vụ Thợ Đồng Hồ. Rồi cô điền những thẻ quản lí vật chứng và giúp đỡ Simpson, Rettig đóng gói các thứ xếp lên chiếc xe thùng. Phải hai người mới cuộn được thanh kim loại nặng vào nilon và xếp lên gọn gàng.
Đúng lúc Sachs vung tay đẩy sập cánh cửa xe lại, cô ngẩng nhìn sang bên kia phố. Cái giá lạnh đã xua hầu hết những người đứng xem đi, nhưng cô chú ý tới một người đàn ông đứng đọc tờ Bưu điện trước một tòa nhà cũ đang được khôi phục lại trên phố Cedar, gần Chase Plaza.
Không bình thường, Sachs tự nhủ. Chả có ai đứng ở góc phố mà đọc báo với thời tiết như thế này. Nếu người ta lo lắng về thị trường chứng khoán hay hiếu kì về một thảm họa vừa xảy ra, người ta cũng chỉ giở lướt xem nhanh chóng, xem mình đã mất bao nhiêu tiền hay chiếc xe buýt của nhà thờ đã rơi xuống đến đâu dưới vực rồi tiếp tục bước đi.
Chứ người ta không đứng trên con phố hun hút gió mà đọc những câu chuyện lượm lặt ở Trang Sáu[19].
[19] Mục chuyện lượm lặt của tờ Bưu điện New York.
Sachs không thể quan sát người đàn ông một cách rõ ràng – anh ta bị che khuất bởi tờ báo và một đống đổ nát từ cái công trường xây dựng. Nhưng một thứ đang hiện ra rất rõ: đôi giày cao cổ của anh ta. Chúng có đế khía rãnh làm tăng độ bám, là loại đế hẳn đã để lại những dấu vết đặc biệt mà cô tìm thấy ở đầu con hẻm.
Sachs cân nhắc. Hầu hết các sĩ quan khác đã rời khỏi hiện trường. Simpson và Rettig có vũ khí, tuy nhiên không được huấn luyện về chiến thuật và kẻ bị tình nghi thì đứng bên kia một hàng rào kim loại cao gần một mét dựng lên cho lễ diễu hành sắp tới. Anh ta sẽ dễ dàng trốn thoát nếu cô tiến đến gần từ vị trí hiện tại. Cô phải tiếp cận anh ta một cách khôn khéo.
Sachs bước tới chỗ Pulaski, thì thầm: “Có một kẻ ở đằng sau anh. Tôi muốn nói chuyện với gã. Gã đàn ông đang đọc báo đó.”
“Đối tượng à?”, Pulaski hỏi.
“Không biết. Có thể. Chúng ta sẽ làm như thế này nhé. Tôi sẽ lên chiếc RRV với nhóm khám nghiệm hiện trường. Họ sẽ thả tôi xuống ở góc phố, phía đông. Anh có lái được xe số sàn không?”
“Được.”
Sachs đưa cho Pulaski chìa khóa chiếc Camaro màu đỏ tươi của cô. “Anh lái xe dọc phố Cedar theo hướng tây về phía Broadway, chừng mười mấy mét. Phanh gấp, ra khỏi xe, nhảy qua dãy hàng rào, quay lại theo lối này nhé.”
“Để lùa gã.”
“Phải. Nếu đúng gã này chỉ đứng đấy đọc báo, chúng ta sẽ hỏi han một tí, kiểm tra chứng minh thư, rồi trở về với công việc. Nếu không, tôi nghĩ rằng gã sẽ xoay người và chạy thẳng vào vòng tay tôi. Anh tiến đến đằng sau, yểm trợ cho tôi nhé.”
“Đã rõ.”
Sachs làm bộ nhìn xung quanh hiện trường lần cuối cùng, rồi trèo lên chiếc RRV to tướng màu nâu. Cô nhoài về phía trước. “Chúng ta có một vấn đề.”
Nancy Simpson và Frank Rettig ngoảnh nhìn Sachs. Simpson kéo khóa chiếc áo khoác xuống, đặt bàn tay vào báng khẩu súng lục.
“Không, không cần thế. Tôi sẽ nói với các bạn vấn đề là gì.” Sachs giải thích tình hình rồi bảo Simpson, người đang lái xe. “Đi theo hướng đông nhé. Đến chỗ đèn xanh đỏ thì rẽ trái. Chỉ chạy chậm lại thôi. Tôi sẽ nhảy ra ngoài.”
Pulaski trèo lên chiếcCamaro, nổ máy và không kìm được việc dồi ga để phát ra một tiếng kêu eo éo gợi tình từ bộ ống xả Tubi.
Rettig hỏi: “Chị không muốn chúng tôi dừng xe à?”
“Không. Chỉ chạy chậm lại thôi. Tôi muốn kẻ kia chắc chắn là tôi đang đi khỏi.”
“Được rồi”, Simpson nói. “Tôi sẽ thực hiện đúng như vậy.”
Chiếc RRV chạy theo hướng đông. Qua gương bên thành xe, Sachs trông thấyPulaski bắt đầu tiến về phía trước – cẩn thận, cô bảo thầm anh, nó là một động cơ quái vật và côn thì chặt như khóa Velcro[20]. Nhưng anh đã kiềm chế được con ngựa bất kham đó và cho lăn bánh về phía trước êm ả, theo hướng ngược lại với chiếc xe thùng.
[20] Velcro: Một nhãn hiệu của loại khóa hay dùng cho giày thể thao, xăng đan, quần áo… gồm hai bản có độ nhám khác nhau, khi ép lại sẽ dính chặt vào nhau.
Đến ngã tư phố Cedar vàNassau, chiếc RRV rẽ và Sachs mở cửa xe. “Cứ chạy. Đừng giảm tốc độ.”
Simpson giữ cho chiếc xe chạy đều đều một cách điêu luyện. “Chúc may mắn.” Nữ cảnh sát khám nghiệm hiện trường nói to.
Sachs nhảy ra ngoài.
Họ! Hơi nhanh hơn chút so với dự định. Sachs loạng choạng nhưng lấy lại được thăng bằng và cảm ơn Cơ quan Vệ sinh đã rắc rất nhiều muốn lên mặt đường đóng băng. Cô bắt đầu di chuyển trên vỉa hè, tiến đến đằng sau người đàn ông. Anh ta không trông thấy cô.
Cách một tòa nhà, rồi cách nửa tòa nhà. Sachs kéo khóa áo khoác xuống và nắm chặt khẩu Glock đeo ở thắt lưng. Cách kẻ bị tình nghi khoảng mười lăm mét. Pulaski đột ngộ ngoặt xe vào lề đường, trèo ra và – không để kẻ bị tình nghi chú ý – dễ dàng nhảy phốc qua dãy hàng rào. Họ đã kẹp anh ta giữa một bên là dãy hàng rào và một bên là tòa nhà đang được khôi phục lại.
Một kế hoạch hay.
Trừ một lỗi virus trong hệ thống.
Bên kia đường, từ chỗ Sachs, có hai nhân viên bảo vệ vũ trang, gác phía trước tòa văn phòng HUD[21]. Họ đã giúp đỡ việc khám nghiệm hiện trường và một người nhìn thấy Sachs. Anh ta vừa vẫy tay vừa gọi cô: “Thám tử, cô quên gì à?”
Như cứt. Gã đàn ông xoay người và nhìn thấy Sachs.
[21] HUD: (viết tắt của Housing and Urban Development) Cơ quan Phát triển Nhà ở và Đô thị.
Hắn ta buông tờ báo, nhảy qua dãy hàng rào, và guồng chân chạy nhanh hết mức có thể xuôi xuống đoạn giữa phố về phía Broadway, va trúng Pulaski ở bên kia. Chàng cảnh sát trẻ cố gắng nhảy lên, tóm được bàn chân hắn ta và ngã mạnh xuống đường. Sachs dừng lại nhưng thấy Pulaski không đau lắm nên tiếp tục đuổi theo kẻ bị tình nghi. Pulaski lăn người đứng dậy, họ cùng đuổi theo hắn ta bấy giờ đã cách họ gần mười mét và càng lúc càng bỏ xa hơn.
Sachs chộp lấy thiết bị thu phát vô tuyến, ấn nút truyền. “Thám tử 5885”, cô hổn hển. “Đang chạy đuổi theo một đối tượng của vụ án mạng gần phố Cedar. Đối tượng đang chạy dọc phố Cedar theo hướng tây, hẵng khoan, giờ theo hướng nam về phía Broadway. Cần hỗ trợ.”
“5885, Roger đây. Đang hướng dẫn cho các đơn vị đến địa điểm của cô.”
Một vài cảnh sát tuần tra đi xe có trang bị bộ đàm để liên lạc trả lời rằng họ đang ở gần và sẵn sàng cắt đường trốn thoát của đối tượng.
Khi Sachs và Pulaski chạy tới công viên Battery, gã đàn ông đột ngột dừng lại, loạng choạng. Hắn ta liếc nhìn sang bên tay phải – đường tàu điện ngầm.
Đừng, đừng lên tàu, cô tự nhủ. Có quá nhiều người đứng ngồi san sát nhau.
Đừng lên tàu…
Gã đàn ông lao xuống các bậc thang sau khi ngoái nhìn lại lần nữa.
Sachs dừng chạy, gọi Pulaski: “Bám theo hắn.” Một hơi thở sâu. “Nếu hắn bắn, hãy quan sát xung quanh thật cẩn thận. Để hắn thoát chứ đừng bắn nếu có bất kì sự nghi ngờ nào.”
Với gương mặt lo lắng, chàng cảnh sát trẻ gật đầu. Sachs biết anh chưa bao giờ tham gia vào một cuộc đọ súng. Anh gọi: “Chị ở đâu…”
“Đi nào!”, Sachs hét.
Chàng cảnh sát trẻ hít một hơi thở và lại bắt đầu guồng chân. Sachs chạy tới lối vào đường tàu điện ngầm, nhìn Pulaski nhảy xuống cứ ba bậc cầu thang liền. Rồi cô sang bên kia phố, đi túc tắc qua nửa khối phố về phía nam. Cô rút khẩu súng ngắn, bước đến đằng sau một quầy báo.
Nhẩm đếm ngược… bốn… ba… hai…
Một.
Sachs bước ra, rẽ tới cửa thoát đường tàu điện ngầm, vừa đúng lúc kẻ bị tình nghi chạy lao lên. Cô chĩa súng vào hắn ta. “Không được cử động.”
Người qua đường kêu thét và nằm rạp xuống đất. Tuy nhiên, phản ứng của kẻ bị tình nghi chỉ đơn giản là chán ngán, có lẽ bởi mưu mẹo của hắn ta không mang lại tác dụng gì. Sachs đã nghĩ hắn ta hẳn sẽ xuất hiện theo lối này. Cô đã đi đến kết luận rằng sự ngạc nhiên trong mắt hắn ta khi trông thấy tàu điện ngầm chỉ là vờ vịt. Nó nói với cô là hắn ta có lẽ sẽ di chuyển dọc nhà ga – một động tác giả. Hắn thờ ơ giơ tay lên.
“Ngồi bệt, cúi mặt xuống.”
“Nào. Tôi…”
“Im!”, Sachs quát.
Hắn liếc nhìn khẩu súng ngắn rồi tuân theo. Mệt đứt hơi vì chạy, các khớp rất đau đớn, cô khuỵu một đầu gối xuống giữa lưng hắn ta để cho hắn một cú tát. Hắn nhăn mặt. Sachs chẳng buồn quan tâm. Cô đang giận dữ.
“Họ tóm được một đối tượng. Tại hiện trường.”
LincolnRhyme và người đàn ông thông báo tin tức thú vị này đang ngồi trong phòng thí nghiệm của anh. Dennis Baker, trạc bốn mươi tuổi, rắn chắc, đẹp trai, một trung úy giám sát bộ phận Các vụ trọng án – bộ phận do Sellitto phụ trách – đã nhận mệnh lệnh từ Tòa Thị chính là ngăn chặn tội ác của Thợ Đồng Hồ lại càng sớm càng tốt. Anh ta là một trong những người “yêu cầu” Sellitto phải đưa được Rhyme và Sellitto tham gia vào cuộc điều tra.
Rhyme nhướn một bên mày. Đối tượng? Bọn tội phạm hay quay lại hiện trường, vì nhiều lí do khác nhau. Và Rhyme phân vân không biết liệu Sachs đã thực sự tóm cổ kẻ sát nhân chưa.
Baker lại quay sang với chiếc điện thoại di động, lắng nghe và gật đầu. Viên trung úy – vẻ bề ngoài giống diễn viên George Clooney đến kì lạ – với phẩm chất tập trung và không biết đùa khiến anh ta là một nhà quản lí tuyệt vời trong ngành cảnh sát nhưng là một bạn nhậu nhạt nhẽo.
“Để hợp tác với anh, anh ta là một tay được đấy”, Sellitto nói về Baker như thế ngay trước khi anh ta từ Sở Cảnh sát New York tới.
“Tốt, nhưng liệu anh ta có can thiệp vào việc của tôi?”, Rhyme hỏi viên thám tử lôi thôi lếch thếch.
“Chẳng đến mức anh nhận ra đâu.”
“Nghĩa là thế nào?”
“Anh ta muốn giắt lưng một chiến thắng lớn và anh ta nghĩ anh có thể đưa tới chiến thắng ấy. Anh ta sẽ giành cho anh tất cả nhân lực vật lực, và tất cả sự ủng hộ, mà anh cần.”
Như thế thì tốt, vì họ đang thiếu người. Có một thám tử nữa của Sở Cảnh sát New Yorkhay làm việc với họ, chuyển đến từ miềnNam, Roland Bell. Viên thám tử này có cung cách dễ dàng, rất khác Rhyme, nhưng cũng có bản chất thận trọng không kém. Bell đang đi nghỉ cùng hai con trai tạiNorth Carolina, thăm bạn gái anh ta là một quận trưởng cảnh sát ở đó.
Họ cũng hay làm việc với một nhân viên mật vụ của FBI nổi tiếng về chống khủng bố và các hoạt động đặc tình, Fred Dellray. Những vụ giết người loại này thông thường không thuộc trách nhiệm liên bang nhưng Dellray vẫn hay giúp đỡ Sellitto và Rhyme, cung cấp các nguồn thông tin của FBI mà không phải qua các thủ tục luôn luôn phiền hà. Tuy nhiên FBI đang tối mắt tối mũi với mấy vụ điều tra lừa đảo lớn kiểu công ti Enron. Dellray bị kẹt vào một trong những vụ ấy.
Bởi vậy, sự hiện diện của Baker – chưa kể tới ảnh hưởng của anh ta ở Tòa nhà Lớn – thật là trời cho. Sellitto bấy giờ đã kết thúc cuộc điện thoại và thông báo rằng Sachs đang phỏng vấn kẻ bị tình nghi, nhưng anh ta không hợp tác cho lắm.
Sellitto ngồi bên cạnh Mel Cooper, kĩ thuật viên giám định có vóc dáng mảnh khảnh kiểu một vũ công mà Rhyme nằng nặc được trưng dụng. Cooper phải chịu đựng chính vì sự xuất sắc của mình với tư cách một kĩ thuật viên giám định hiện trường. Rhyme gọi anh ta bất cứ lúc nào để giải quyết các vấn đề kĩ thuật trong những vụ anh đảm nhận. Sáng hôm ấy, anh ta hơi chần chừ khi Rhyme gọi đến phòng thí nghiệm ở Queens, anh ta giải thích rằng đã có kế hoạch đưa bạn gái và mẹ đi Florida vào dịp cuối tuần.
Câu trả lời của Rhyme là: “Nếu anh mau mau tới đây thì sẽ kịp về đi nghỉ cuối tuần, không thì anh có thể bị gay go to với mẹ và bạn gái anh. Anh nói sao?”
“Tôi sẽ có mặt sau nửa tiếng nữa.” Bây giờ thì Cooper đang ngồi bên cạnh chiếc bàn khám nghiệm trong phòng, chờ đợi các chứng cứ. Đeo đôi găng tay cao su, anh ta đút choJacksonít bích quy, chú chó nằm cuộn tròn dưới chân anh ta.
Rhyme càu nhàu: “Nếu có chút nhiễm bẩn nào vì lông chó, tôi sẽ không hài lòng đâu.”
“Nó dễ thương phết”, Cooper vừa nói vừa thay găng.
Nhà hình sự học cáu kỉnh ầm ừ. “Dễ thương” không phải một từ được sử dụng trong từ điển của Lincoln Rhyme.
Điện thoại của Sellitto lại đổ chuông, ông ta nhận cuộc gọi, rồi ngắt máy. “Về nạn nhân ở cầu tàu, lực lượng Tuần tra Bờ biển và các thợ lặn của chúng ta chưa tìm thấy cái xác nào cả. Vẫn đang kiểm tra các báo cáo về người mất tích.”
Vào đúng lúc nhóm Khám nghiệm hiện trường tới và Thom giúp đỡ một sĩ quan mang các chứng cứ mà Sachs thu được từ hiện trường vào.
Về thời gian…
Baker và Cooper lôi vào một thanh kim loại nặng bọc nilon.
Vũ khí kẻ sát nhân sử dụng trong vụ án mạng ở con hẻm.
Người sĩ quan khám nghiệm hiện trường nộp các thẻ quản lí vật chứng để Cooper kí vào. Anh ta chào tạm biệt nhưng Rhyme không nhận ra sự có mặt của anh ta. Nhà hình sự học đang nhìn các chứng cứ. Anh sống vì khoảnh khắc này. Sau tai nạn về tủy sống, niềm đam mê của anh – thực sự là một trạng thái nghiện – đối với môn thể thao một-chọi-một với các đối tượng vẫn tiếp tục chẳng giảm sút, và chứng cứ thu được từ các vụ phạm tội là sân chơi cho môn thể thao này.
Rhyme cảm thấy niềm hân hoan hăm hở về những gì sắp sủa xảy ra.
Và tội lỗi nữa.
Vì trong anh sẽ chẳng ngập tràn tâm trạng phấn chấn này nếu không phải bởi vì sự mất mát của ai đó: nạn nhân trên cầu tàu và Theodore Adams, gia đình và bạn bè họ. Ôi, tất nhiên, anh cảm thấy đồng cảm với nỗi buồn rầu của họ. Nhưng anh có thể gói ý thức về bi kịch lại và cất đâu đấy. Một số người bảo anh lạnh lùng, vô tình và anh cũng nghĩ vậy. Nhưng những ai xuất sắc ở một lĩnh vực nào đấy hay như thế, vì nhiều nét tính cách khác nhau ngẫu nhiên tụ hội trong họ. Trí tuệ sắc sảo cùng tính thiếu kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng của Rhyme ngẫu nhiên trùng với sự xa cách tình cảm, đó là thuộc tính cần thiết của những nhà hình sự học giỏi nhất.
Anh đang nheo mắt, nhìn chằm chằm những chiếc hộp thì Ron Pulaski tới. Rhyme gặp anh lần đầu tiên khi chàng trai trẻ mới vào ngành. Mặc dù một năm trước – và Pulaski là người đàn ông của gia đình, ông bố của hai đứa con – Rhyme vẫn không thể thôi nghĩ về anh như một “tân binh”. Một số biệt hiệu bạn không thể lay chuyển được.
Rhyme thông báo: “Tôi biết Amelia đang tạm bắt giữ ai đó nhưng phòng trường hợp đấy không phải là đối tượng, tôi không muốn mất thời gian.” Anh quay sang Pulaski. “Cho tôi biết tình hình nào. Hiện trường thứ nhất, cầu tàu.”
“Được”, Pulaski bắt đầu với vẻ bứt rứt. “Vị trí cầu tàu khoảng chừng ở phố Hai mươi hai trên sông Hudson. Nó nhô ra sông mười sáu mét, cách mặt nước năm mét rưỡi. Kẻ giết người…”
“Nghĩa là họ tìm thấy cái xác rồi?”
“Tôi không nghĩ thế.”
“Thế thì anh muốn nói kẻ dường như đã giết người?”
“Phải ạ. Kẻ dường như đã giết người xuất hiện tại đầu phía ngoài sông của cầu tàu, tức là, đầu phía tây, trong khoảng từ sáu giờ tối hôm qua đến sáu giờ sáng hôm nay. Trong khoảng thời gian này bến tàu đóng.”
Chứng cứ quá ít ỏi: chỉ có cái móng tay, chắc hẳn của một người đàn ông, chỗ máu mà Mel Cooper đã thử và xác định là máu người, nhóm AB, tức là cả hai kháng nguyên – protein – A và B đều có trong huyết tương của nạn nhân, và không có cả hai kháng thể chống A, B. Ngoài ra còn có một loại protein khác nữa, Rh. Sự kết hợp của hai kháng nguyên AB và Rh dương tính khiến nạn nhân có nhóm máu hiếm hàng thứ ba, chỉ ở độ ba phẩy năm phần trăm dân số. Các xét nghiệm tiếp theo khẳng định nạn nhân là đàn ông.
Ngoài ra, họ cũng kết luận rằng người này có lẽ đã đứng tuổi và gặp vấn đề về động mạch vành, vì ông ta đang sử dụng một thứ thuốc chống đông máu – một thứ thuốc làm tan những cục máu đông. Không phát hiện được dấu hiệu của việc sử dụng các thứ thuốc khác hay các bệnh nhiễm trùng, bệnh trong máu.
Không có dấu vân tay, dấu chân hay bất cứ dấu vết nào khác tại hiện trường, không có vết bánh xe gần đó trừ các vết bánh xe của nhân viên công ti.
Sachs đã thu lấy một đoạn hàng rào mắt cáo và Cooper xem xét các mép cắt, thấy rằng đối tượng sử dụng một thú xem chừng là một dụng cụ cắt dây kẽm đúng tiêu chuẩn để cắt dây hàng rào. Nhóm khám nghiệm có thể ghép những vết cắt này với những vết cắt được tạo ra bởi một loại dụng cụ nào đấy nhưng chẳng thể nào lần ngược lại nguồn gốc của thứ dụng cụ ấy chỉ nhờ vào những vết cắt.
Rhyme kiểm tra các bức ảnh chụp hiện trường, đặc biệt hình dáng những vết máu chảy trên cầu tàu. Anh phỏng đoán nạn nhân đã bám ở mép cầu tàu, khoảng ngang ngực, những ngón tay tuyệt vọng bấu chặt khe hở giữa hai tấm ván. Dấu móng tay cho thấy rốt cuộc anh ta đã tuột tay. Rhyme phân vân không biết nạn nhân có thể treo mình bao lâu được.
Anh chậm rãi gật đầu. “Hãy nói về hiện trường tiếp theo.”
Pulaski trả lời: “Được ạ, án mạng xảy ra trong một con hẻm ở phố Cedar, gần Broadway. Đây là một con hẻm cụt. Nó rộng bốn phẩy sáu mét, dài ba mươi hai phẩy mét rải sỏi.”
Rhyme nhớ lại là cái xác cách đầu hẻm chừng bốn phẩy sáu mét.
“Nạn nhân chết lúc mấy giờ?”
“Ít nhất tám tiếng trước khi được phát hiện, theo ý kiến của bác sĩ khám nghiệm. Cái xác đã đóng băng nên phải mất khá lâu mới khẳng định được chắc chắn.”