Trăng lạnh - Phần I - Chương 05 - Phần 1
“Amelia nói với tôi về hoạt động giao hàng và các cửa thoát hiểm trong con hẻm. Có ai hỏi xem buổi tối họ đóng cửa lúc mấy giờ không?”
“Ba trong số những tòa nhà đó là cơ sở thương mại. Hai tòa nhà đóng các cửa phục vụ khách hàng lúc tám giờ ba mươi và một tòa nhà đóng lúc mười giờ. Tòa nhà thứ tư là cơ quan của chính quyền bang, đóng cửa lúc sáu giờ. Có chuyến thu rác khuya lúc mười giờ.”
“Cái xác được phát hiện lúc nào?”
“Khoảng bảy giờ sáng.”
“Được rồi, nạn nhân trong con hẻm đã chết ít nhất tám tiếng, cánh cửa cuối cùng đóng lúc mười giờ và có chuyến thu rác khuya lúc đó. Như thế thì án mạng xảy ra, xem nào, giữa mười giờ mười lăm và mười một giờ đêm. Tình hình các xe đỗ xung quanh đấy?”
“Tôi đã lấy biển đăng kí của tất cả các xe đỗ trong vòng bán kính hai khối phố.” Pulaski giơ lên một cuốn sổ to tướng.
“Cái chết tiệt gì thế?”
“Ồ, tôi đã ghi chép về tất cả các xe. Tôi nghĩ nó có thể hữu ích. Anh biết đấy, đại loại là đỗ ở đâu, có đặc điểm nào đáng nghi ngờ không.”
“Mất thời gian. Chúng ta chỉ cần những con số đuôi để xác định tên và địa chỉ thôi”, Rhyme nói. “Để kiểm tra chéo giữa Cơ quan Quản lí xe gắn máy với Trung tâm thông tin Tội phạm Quốc gia và các cơ sở dữ liệu khác. Chúng ta quan tâm quái gì là ai phải sửa chữ thân xe, ai có những chiếc lốp mòn hay một cái ống dẫn nước nứt vứt dưới ghế sau chứ… Nào, cậu thực hiện chưa?”
“Gì ạ?”
“Xử lí những con số đuôi ấy?”
“Chưa.”
Cooper vào mạng nhưng không tìm thấy ai trong số các chủ xe có đăng kí từng gặp vấn đề với pháp luật. Theo hướng dẫn của Rhyme, anh ta cũng kiểm tra xem có vé phạt nào được phát ra trong khu vực xung quanh thời gian diễn ra án mạng không. Không có vé phạt nào cả.
“Mel, kiểm tra tên nạn nhân. Từng có lệnh bắt giữ không? Có thông tin gì nữa về anh ta không?”
Không có lệnh bắt giữ cấp bang đối với Theodore Adams, và Pulaski thuật lại lời em gái anh ta nói rằng anh ta xem chừng không có kẻ thù hay những vấn đề trong đời sống riêng tư có thể dẫn tới việc bị giết.
“Vậy tại sao lại là những nạn nhân này?”, Rhyme đặt câu hỏi. “Những sự lựa chọn ngẫu nhiên chăng?... Tôi biết Dellray đang bận bịu nhưng chuyện này quan trọng. Hãy gọi cho anh ta và đề nghị anh ta kiểm tra họ tênAdams. Thử xem FBI có thông tin gì về anh ta không.”
Sellitto gọi cho văn phòng FBI và gặp đượcDellray, anh ta đang trong tâm trạng tồi tệ vì “cái bãi lầy phát ngấy lên”, tức vụ lừa đảo tài chính mà anh ta phải đảm nhận. Tuy nhiên, anh ta vẫn cố gắng kiểm tra cơ sở dữ liệu của FBI và hồ sơ các vụ án đang thụ lí. Nhưng kết quả là không có thông tin gì về Theodore Adams.
“Thôi được rồi”, Rhyme tuyên bố. “Cho tới lúc chúng ta tìm thấy cái gì đó, hãy cứ cho rằng họ là những nạn nhân ngẫu nhiên của một gã tâm thần.” Anh nheo mắt nhìn các bức ảnh. “Những cái đồng hồ ở chỗ quái nào nhỉ?”
Một cú gọi tới đội tháo bom cho biết chúng đã được loại bỏ khỏi mọi mối đeo dọa về độc tố hóa hay sinh học và đang trên đường đến tay Rhyme.
Số tiền mặt trong chiếc kẹp tiền bằng vàng mỹ kí có vẻ vừa được rút ra từ một máy ATM. Những tờ tiền sạch sẽ nhưng Cooper tìm thấy các dấu vân tay rất rõ ràng trên chiếc kẹp. Bất hạnh thay, khi anh ta cho chúng chạy qua Hệ thống hợp nhất nhận diện dấu vân tay tự động của FBI, chúng chẳng khớp với dấu vân tay nào. Vài dấu vân tay trên số tiền mặt trong túi áoAdamscũng vậy, và căn cứ theo số sê-ri thì những tờ tiền ấy không bị Kho bạc đánh dấu vì khả năng dính dáng đến hoạt động rửa tiền hay các loại tội phạm khác.
“Còn chỗ cát?”, Rhyme hỏi.
“Nhận xét chung thì đó là loại cát được sử dụng cho các sân chơi chứ không phải cát công trường. Tôi sẽ kiểm tra những dấu hiệu khác nữa”, Cooper nói to, không ngẩng đầu khỏi kính hiển vi.
Và không có cát ở cầu tàu, Rhyme nhớ lại lời Sachs. Bởi, như cô phỏng đoán, đối tượng đã lên kế hoạch quay lại con hẻm chăng? Hay đơn giản bởi ở cầu tàu thì chẳng cần cát, ở đấy những cơn gió bạo liệt từ sôngHudsonsẽ quét sạch hiện trường?
“Còn cái máy ép?”, Rhyme hỏi.
“Cái gì ạ?”
“Cái thanh kim loại đã ép cổ nạn nhân ấy. Nó có lỗ giống như lỗ kim.” Rhyme từng nghiên cứu về các loại vật liệu xây dựng trong thành phố, vì một cách phổ biến để giải quyết xác nạn nhân là vứt vào các công trường. Cooper và Sellitto nâng thanh kim loại – nó nặng ba mươi bảy ki-lô – đặt lên chiếc bàn khám nghiệm. Thanh kim loại dài một trăm tám mươi ba centimét, rộng hai phẩy năm centimét, dày bảy phẩy năm centimét, mỗi đầu khoan một cái lỗ. “Loại này phần lớn được sử dụng trong đóng tàu, các thiết bị hạng nặng, cần cẩu, ăng ten, cầu bắc qua sông.”
“Nó là thứ vũ khí giết người nặng nhất tôi từng thấy”, Cooper nói.
“Nặng hơn cả chiếc Suburban?”, LincolnRhyme hỏi. Anh luôn luôn đặt sự chính xác lên hàng đầu. Anh muốn ám chỉ vụ người vợ cán ông chồng trăng hoa của mình bằng chiếc SUV rất lớn ngay giữa đại lộ Ba mấy tháng trước.
“Ôi, đó… trái tim dối lừa.” Cooper hát với giọng nam cao the thé. Rồi anh ta thử dấu vân tay nhưng không tìm thấy gì. Anh ta thử lần lượt những mảnh kim loại bào ra từ cái ống. “Có lẽ là sắt. Tôi thấy hiện tượng oxy hóa đây này.” Một phép thử hóa học kết luận đúng là sắt.
“Không dấu vết nhận diện à?”
“Không.”
Rhyme nhăn mặt. “Thật là một vấn đề. Phải có đến năm mươi chỗ có loại thanh sắt này ở khu vực tàu điện ngầm… Hẵng gượm. Amelia nói tới một công trường gần đấy…”
“Ồ”, Pulaski đáp. “Tôi đã kiểm tra theo yêu cầu của chị ấy, họ không sử dụng bất cứ loại thanh sắt nào như vậy. Tôi quên chưa nói.”
“Cậu quên”, Rhyme lẩm bẩm. “Này, tôi biết thành phố đang tiến hành thi công lớn trên cầu Queensboro. Hãy thử tìm kiếm ở đó xem”, Rhyme nói với Pulaski. “Hãy gọi cho đội thi công trên Queensboro và hỏi thăm xem họ có đang sử dụng các thanh kim loại không, nếu có thì có bị mất thanh nào không.”
Chàng cảnh sát trẻ gật đầu, rút điện thoại di động.
Cooper xem xét mẫu phân tích cát. “Được rồi, có một thứ ở đây này. Thallium sulfate.”
“Là cái gì?”, Sellitto hỏi.
“Thuốc diệt chuột”, Rhyme trả lời. “Nó bị cấm sử dụng ở Mỹ nhưng thỉnh thoảng anh cũng tìm được trong những cộng đồng người nhập cư hay trong những tòa nhà nơi người nhập cư làm việc. Độ đậm đặc thế nào?”
“Rất cao… và hoàn toàn không có ở mẫu đất đối chứng cũng như ở phần cát còn lại Sachs lấy về. Điều đó nghĩa là nó có khả năng từ một nơi mà đối tượng đã qua lại.”
“Có thể hắn đang lên kế hoạch sử dụng nó để giết người”, Pulaski nêu ý kiến, trong lúc giữ điện thoại chờ.
Rhyme lắc đầu.
“Ít khả năng. Không dễ dàng gì kiếm được và cần sử dụng liều cao cho người. Nhưng nó có thể dẫn chúng ta tới chỗ hắn. Hãy tìm hiểu xem trong thành phố gần đây có trường hợp tịch thu thuốc độc hay kêu ca gì ở cơ quan môi trường không.”
Cooper gọi điện đi các nơi.
“Hãy kiểm tra mẫu băng dính nhựa”, Rhyme yêu cầu.
Người kĩ thuật viên xem xét những đoạn băng dính hình chữ nhật xám bóng đã được sử dụng để trói tay chân và bịt mồm nạn nhân. Anh ta thông báo rằng nó thuộc loại thông thường, có bán tại hàng nghìn cửa hiệu thuốc, tạp hóa, vật liệu sửa chữa nhà cửa trên toàn quốc. Việc xét nghiệm chất kết dính hầu như không bộc lộ dấu hiệu nào, trừ vài hạt muối làm tan tuyết, phù hợp với các mẫu Sachs thu xung quanh hiện trường, và chỗ cát Thợ Đồng Hồ đã rải nhằm xóa sạch dấu vết.
Thất vọng vì những đoạn bang dính nhựa không giúp ích thêm được gì, Rhyme quay sang với các bức ảnh Sachs chụp thi thể Adams. Rồi anh cho xe lăn đến gần chiếc bàn khám nghiệm hơn và ngó vào màn hình.
“Hãy nhìn những mép băng dính này.”
“Thú vị đấy”, Cooper nói, chuyển ánh mắt từ bức ảnh kĩ thuật số sang miếng băng dính thật.
Điều gây ấn tượng mạnh mẽ cho hai người là những đoạn băng dính được cắt một cách cực kì chính xác và quấn rất cẩn thận. Thông thường nó chỉ được xé ra khỏi cuộn, đôi khi được kẻ tấn công rút ra bằng răng (hành động này hay để lại nước bọt đầy ADN), và quấn cẩu thả quanh bàn tay, mắt cá chân và mồm nạn nhân. Nhưng những đoạn băng dính của Thợ Đồng Hồ được cắt một cách hoàn hảo bằng một vật sắc. Chiều dài mỗi đoạn y hệt nhau.
Ron Pulaski cúp máy, đoạn thông báo: “Họ không sử dụng loại thanh sắt có khoan lỗ như thế ở công trình đang làm trên cầu.”
Được, Rhyme cũng chẳng chờ đợi những câu trả lời dễ dàng.
“Còn sợi dây thừng anh ta giữ?”
Cooper xem xét nó, kiểm tra cơ sở dữ liệu. Anh ta lắc đầu. “Loại thông thường.”
Rhyme gật đầu với mấy tấm bảng trắng vẫn trống trơn dựng trong góc phòng thí nghiệm. “Bắt đầu lập các bảng chứng cứ của chúng ta nào. Cậu, Ron, cậu viết đẹp lắm hả?”
“Đẹp vừa phải thôi.”
“Chúng ta chẳng cần gì hơn. Hãy viết đi.”
Khi giải quyết các vụ án, Rhyme lập bảng về tất cả các chứng cứ họ tìm thấy. Đối với anh, chúng giống như những quả cầu pha lê. Anh sẽ đăm đăm nhìn những từ ngữ, những bức ảnh và sơ đồ, để cố gắng hiểu đối tượng có thể là ai, hắn đang trốn tránh ở chỗ nào, hắn dự định sẽ thực hiện tội ác tiếp theo ở đâu. Đăm đăm nhìn những tấm bảng ghi chép các tang chứng là sự tiếp cận gần nhất của Rhyme đến phép thiền.
“Chúng ta sẽ sử dụng tên hắn làm cái tít, bởi hắn đã quá lịch thiệp cho chúng ta biết hắn muốn được gọi như thế nào.”
Trong lúc Pulaski viết những điều Rhyme đọc, Cooper cầm lên cái ống đựng một mẫu vật bé tí có vẻ là đất. Anh ta kiểm tra nó dưới kính hiển vi, bắt đầu ở mức phóng đại bốn lần vật kính (nguyên tắc thứ nhất khi sử dụng các kính quang học là bắt đầu ở mức phóng đại thấp, nếu bạn ngay lập tức để ở mức phóng đại cao cuối cùng bạn sẽ quan sát được những hình ảnh trừu tượng thú vị về mặt mỹ thuật nhưng vô dụng về mặt giám định).
“Trông giống loại đất cơ bản. Tôi sẽ xem trong nó còn có cái gì.” Cooper chuẩn bị mẫu để đưa vào máy tách hỗn hợp các chất/quang phổ kế, một dụng cụ lớn tách và xác định các chất trong vật chứng.
Khi đã có kết quả, Cooper nhìn màn hình máy vi tính và thông báo: “Tốt, chúng ta có chút dầu, nitrogen, urea, chloride… và protein. Để tôi chạy bản mô tả sơ lược.” Lát sau, các thông tin bổ sung hiện lên kín màn hình máy vi tính. “Protein cá.”
“Vậy có thể đối tượng làm việc tại một nhà hàng chuyên phục vụ các món cá”, Pulaski hăng hái nói. “Hoặc một quầy bán cá ở Chinatown[22]. Hoặc, gượm nào, có thể là bàn tính tiền cá trong một cửa hiệu thực phẩm.”
[22] Chinatown: Khu phố của người Trung Quốc ởNew York.
Rhyme hỏi: “Ron này, cậu từng nghe một diễn giả nói Trước khi bắt đầu, tôi muốn nói đôi điều bao giờ chưa?”
“Ừm. Tôi nghĩ là tôi đã từng nghe.”
“Như thế là hơi kì quặc bởi khi anh ta nói vậy là anh ta đã bắt đầu rồi, đúng không?”
Pulaski nhướn một bên mày.
“Ý tôi là trong việc phân tích các chứng cứ, cậu hành động trước khi cậu bắt đầu.”
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Hãy tìm hiểu xem chứng cứ đến từ đâu. Này nhé, Sachs đã thu chỗ đất dính protein cá ấy ở đâu?”
Pulaski nhìn cái nhãn chứng cứ. “Ồ.”
“Ồ là ở đâu?”
“Trong túi áo khoác nạn nhân.”
“Vậy chứng cứ nói với chúng ta về ai nào?”
“Nạn nhân, không phải đối tượng.”
“Chính xác! Sẽ hữu ích chăng khi biết rằng nó nằm trong túi áo khoác anh ta, không phải bên trên túi? Nhưng điểm quan trọng là đừng có quá nhanh nhẹn mù quáng cử quân đến gặp mọi nhà buôn cá của thành phố. Cậu thấy thoải mái với lí thuyết đó chứ, Ron?”
“Thực sự thoải mái.”
“Tôi rất hài lòng. Hãy viết mẫu đất mang mùi cá bên dưới mục mô tả sơ lược nạn nhân và chúng ta sẽ thảo luận về nó nhé? Bao giờ thì nhân viên khám nghiệm y tế gửi báo cáo cho chúng ta?”
Cooper trả lời: “Phải mất một chút thời gian. Khoảng thời gian nghỉ lễ Giáng sinh.”
Sellitto hát: “Ấy là mùa để giết chóc…”
Pulaski cau mày. Rhyme giải thích cho anh: “Những khoảng thời gian nhiều người chết nhất trong năm là những đợt nóng nực và những dịp nghỉ lễ. Hãy nhớ, Ron, stress không giết người, mà là người giết người, nhưng stress khiến họ hành động như vậy.”
“Có sợi vải ở đây, màu nâu”, Cooper thông báo. Anh ta liếc nhìn lời ghi chú đính kèm cái túi. “Đế giày sau của nạn nhân và dây đồng hồ đeo tay.”
“Sợi vải loại gì?”
Cooper xem xét kĩ càng những sợi vải và cho chạy qua cơ sở dữ liệu về sợi vải của FBI. “Trông giống như kiểu sử dụng trong ô tô.”
“Việc hắn có một chiếc ô tô là hoàn toàn hiểu được, cậu không thể vác một thanh sắt nặng ba mươi bảy ki-lô đi trên tàu điện ngầm. Vậy gã Thợ Đồng Hồ của chúng ta đã đỗ xe phía trước con hẻm và kéo lê nạn nhân đến nơi hắn đặt anh ta nằm. Chúng ta có thể nói gì về chiếc xe?”
Hóa ra chẳng nhiều nhặn lắm. Những sợi vải là từ loại thảm được sử dụng trong hơn bốn mươi mẫu xe con, xe tải và SUV. Về vết bánh xe, phần hẻm đối tượng đỗ xe bị rải muối khiến lốp xe không tiếp xúc hẳn xuống lớp sỏi nên không để lại dấu vết.
“Một số 0 to tướng ở mục phương tiện vận chuyển. Được, hãy xem xét bức thư tình của hắn.”
Cooper rút tờ giấy trắng ra khỏi chiếc phong bì nhựa.
Vầng Trăng Lạnh tròn vành vạnh trên bầu trời,
chiếu ánh sáng lên thi thể này dưới mặt đất,
cho biết thời điểm cái chết đến
và kết thúc cuộc hành trình bắt đầu từ khi chào đời.
THỢ ĐỒNG HỒ
“Chính nó à?”, Rhyme hỏi.
“Chính nó cái gì ạ?”, Pulaski hỏi lại, như thể anh ta vừa lơ đễnh đi đâu.
“Trăng tròn. Rõ ràng rồi. Đúng hôm nay.”
Pulaski giở qua tờ Thời báoNew York của Rhyme. “Vâng. Trăng tròn.”
“Hắn muốn nói gì khi viết hoa từ Trăng Lạnh?”, Dennis Baker thắc mắc.
Cooper tìm kiếm trên Internet. “Đây, đó là một tháng trong âm lịch… Chúng ta theo dương lịch, dựa vào mặt trời. Âm lịch đánh dấu thời gian theo từng tuần trăng. Tên các tháng mô tả vòng đời của chúng ta lúc sinh ra tới lúc chết đi. Tên các tháng được đặt theo từng mốc thời gian trong năm. Tháng Trăng Dâu[23] là vào mùa xuân, tháng Trăng Cơm Mới[24] và Trăng Săn Bắt[25] là vào mùa thu. Trăng Lạnh là tháng Mười Hai, tháng của sự ngủ đông và cái chết.”
Như Rhyme đã lưu ý lúc trước những sát thủ liên hệ đến các chủ đề mặt trăng hay thiên văn có xu hướng là những sát thủ giết người hàng loạt. Theo một số tài liệu thì người ta thực tế bị thúc đẩy phạm tội bởi mặt trăng, nhưng Rhyme tin tưởng rằng đó đơn giản vì ảnh hưởng của những gợi ý từ phim ảnh chẳng hạn – ví dụ báo cáo về các trường hợp bắt cóc ngoại kiều tăng lên ngay sau khi tác phẩm Những cuộc chạm trán ngang sức ngang tài hạng ba[26] của Steven Spielberg công chiếu.
[23] Trăng Dâu: StrawberryMoon.
[24] TrăngCơmMới: HarvestMoon.
[25] Trăng Săn Bắt: Hunter Moon.
[26] Những cuộc chạm trán ngang sức ngang tài hạng ba: Close Encounters of the Third Kind.
“Chạy cái tên Thợ Đồng Hồ qua cơ sở dữ liệu đi, cùng với từ Trăng Lạnh. Ồ, và các tháng âm lịch khác nữa.”
Sau mười phút tìm kiếm với Chương trình bắt giữ tội phạm bạo lực của FBI và Trung tâm thông tin tội phạm quốc gia, cũng như cơ sở dữ liệu bang, họ không thu được kết quả gì.
Rhyme yêu cầu Cooper tìm hiểu xuất xứ bài thơ nhưng anh ta chẳng tìm thấy bài thơ nào thậm chí là từa tựa vậy trên hàng chục website thơ. Người kĩ thuật viên còn gọi cho cả một giáo sư văn chương ở Đại học Tổng hợp New York thi thoảng vẫn giúp đỡ họ. Ông ta chưa bao giờ nghe về nó. Và bài thơ hoặc quá ít tiếng tăm nên không xuất hiện trên bất cứ website nào hoặc nhiều khả năng hơn nó là tác phẩm của chính Thợ Đồng Hồ.
Cooper nói: “Về bản thân tờ ghi chú, nó là loại giấy thông thường in ra tù một máy in vi tính. Mực LaserJet Hewlett-Packard, không có gì đặc biệt.”
Rhyme lắc đầu, nản lòng vì chẳng nắm được manh mối nào. Nếu thực tế Thợ Đồng Hồ đúng là sát thủ hành động mang tính chất chu kì thì ngay bây giờ hắn phải có mặt ở đâu đó, đang kiểm tra – hay thậm chí đang sát hại – nạn nhân tiếp theo của mình.
Một lát sau, Amelia Sellitto tới, cởi bỏ chiếc áo khoác ngắn. Cô được giới thiệu với Dennis Baker, anh ta nói rất vui vì cô tham gia giải quyết vụ án. Sự nổi tiếng của cô đã đi trước cô, viên cảnh sát chưa đeo nhẫn cưới nói thêm, mỉm cười hơi có ý tán tỉnh. Sachs đáp lại bằng cái bắt tay nghề nghiệp, mạnh mẽ. Tất cả là công việc trong ngày của một phụ nữ thuộc lực lượng cảnh sát.
Rhyme thông báo ngắn gọn cho cô những gì họ đã tìm hiểu được từ các chứng cứ.
“Không nhiều”, Sachs lẩm bẩm. “Hắn giỏi đấy.”
“Câu chuyện về kẻ bị tình nghi thế nào?”, Baker hỏi.
Sachs hất đầu về phía cửa ra vào. “Một phút nữa anh ta sẽ có mặt. Anh ta bỏ chạy khi chúng tôi cố gắng tóm anh ta nhưng tôi không nghĩ anh ta là gã đàn ông của chúng ta. Tôi đã kiểm tra anh ta. Có vợ, làm môi giới chứng khoán, chưa chuyển chỗ làm trong năm năm qua, chưa bao giờ phải nhận lệnh bắt giữ. Tôi thậm chí không nghĩ anh ta vác nổi nó.” Cô hất đầu về phía thanh sắt.
Có tiếng gõ cửa.
Đằng sau Sachs, hai sĩ quan mặc đồng phục đưa một người đàn ông trông không vui vẻ gì bị còng tay vào. Ari Cobb trạc ba mươi lăm tuổi, dễ coi theo kiểu một doanh nhân thuộc loại thường thường. Người đàn ông vóc dáng mảnh khảnh mặc chiếc áo khoác đẹp, có lẽ hàng casomia tuy bị vấy những vết giống như bùn quánh ngoài phố, chắc hẳn là do cuộc bắt giữ.
“Câu chuyện thế nào?”, Sellitto cộc cằn hỏi Cobb.
“Như tôi đã nói với cô ta.” Một cái hất đầu lạnh nhạt về phía Sachs. “Tối qua trong lúc đi bộ đến đường tàu điện ngầm ở phố Cedar tôi đánh rơi tiền. Nó kia kìa.” Cobb hất đầu về phía những tờ tiền giấy và cái kẹp tiền. “Sáng nay tôi phát hiện ra chuyện đó và quay lại tìm. Tôi nhìn thấy cảnh sát. Tôi không biết, tôi chỉ không muốn bị liên quan. Tôi làm nghề môi giới chứng khoán. Tôi có các khách hàng rất nhạy cảm với dư luận. Nó có thể ảnh hưởng xấu tới công việc của tôi.” Đến lúc ấy người đàn ông xem chừng mới nhìn thấy Rhyme phải ngồi xe lăn. Anh ta chớp mắt một cái, rồi sự sửng sốt qua đi và nét mặt lại phẫn nộ.
Kiểm tra quần áo Cobb thì không thấy có cát mịn, máu hay bất cứ dấu vết nào liên hệ anh ta với những vụ án mạng. Giống như Sachs, Rhyme không tin tưởng rằng đây là Thợ Đồng Hồ, nhưng vì những vụ án mạng đó quá nghiêm trọng anh sẽ phải cẩn thận.
“Hãy lấy dấu vân tay của anh ta”, Rhyme yêu cầu.
Cooper thực hiện và xác định được dấu vân tay ở cái kẹp tiền là của Cobb. Kiểm tra theo cơ sở dữ liệu Cơ quan Quản lí xe gắn máy thì Cobb không sở hữu chiếc ô tô nào, và một cú điện thoại gọi tới công ti cung cấp thẻ tín dụng anh ta đang dùng cho biết gần đây anh ta cũng không thuê chiếc ô tô nào bằng thẻ của mình.
“Anh đánh rơi tiền lúc nào?”, Sellitto hỏi.
Cobb trình bày rằng tối hôm trước anh ta rời khỏi văn phòng lúc khoảng bảy giờ ba mươi. Anh ta ngồi uống chút ít với các bạn, rồi tạm biệt họ lúc khoảng chín giờ và đi bộ đến đường tàu điện ngầm. Anh ta nhớ đã rút thẻ tàu điện ngầm từ túi áo khoác ra khi đang đi bộ dọc phố Cedar, có lẽ anh ta mất cái kẹp tiền lúc ấy. Anh ta tiếp tục đi đến ga tàu điện ngầm và trở về nhà ở khu Upper East Side, lúc khoảng chín giờ bốn mươi lăm. Vợ anh ta đi công tác nên anh ta đến một quán bar gần đấy ăn tối một mình. Anh ta trở về nhà lúc khoảng mười một giờ.
Sellitto gọi mấy cú điện thoại kiểm tra câu chuyện Cobb kể. Nhân viên bảo vệ ban đêm của văn phòng anh ta khẳng định anh ta rời khỏi văn phòng lúc bảy giờ ba mươi, giấy biên nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng cho biết anh ta đã có mặt tại một quán bar cuối phố Water lúc khoảng chín giờ, và người gác cửa tòa nhà anh ta ở cũng như một người hàng xóm khẳng định anh ta trở về căn hộ đúng thời gian anh ta khai báo. Xem chừng anh ta chẳng thể bắt cóc hai nạn nhân, giết một người trên cầu tàu, và sắp xếp cái chết cho Theodore Adams trong con hẻm, tất cả chỉ từ chín giờ mười lăm đến mười một giờ.
Sellitto nói: “Chúng tôi đây đang điều tra về một tội ác rất nghiêm trọng. Nó xảy ra gần nơi anh đã có mặt tối qua. Anh có chủ ý thấy bất cứ điều gì có thể giúp đỡ chúng tôi chăng?”
“Không, không gì cả. Tôi xin thề tôi sẽ giúp đỡ các ông nếu tôi có thể.”
“Anh biết đấy, kẻ sát nhân có thể lại chuẩn bị hành động.”
“Tôi rất tiếc”, Cobb nói, nghe cũng chẳng có vẻ lấy làm tiếc cho lắm. “Nhưng tôi hoảng sợ. Và đó không phải tội ác.”
Sellitto liếc nhìn hai cảnh sát canh anh ta.
“Đưa anh ta ra ngoài một lúc.”
Sau khi anh ta đi khỏi, Baker lẩm bẩm: “Mất thời gian.”
Sachs lắc đầu. “Anh ta biết cái gì đó. Tôi có linh cảm như vậy.”
Rhyme chần chừ nơi Sachs khi lời cô động đến những yếu tố mà anh – với chút chiếu cố – vẫn gọi là khía cạnh “con người” của nghề nghiệp cảnh sát: nhân chứng, tâm lí học, và lạy trời, linh cảm.
“Được”, anh nói. “Nhưng chúng ta làm gì với linh cảm của em?”
Tuy nhiên, người đáp không phải Sachs mà là Lon Sellitto. Ông ta nói: “Có một ý kiến đấy.” Ông ta mở áo khoác, để lộ chiếc sơ mi nhàu nát không thể tưởng tượng nổi và lục tìm điện thoại di động.