Trăng lạnh - Phần I - Chương 07 - Phần 2

Dance tháo kính và ngồi ngả người ra sau. “Nghe này, Ari, chúng tôi chẳng muốn phá hoại cuộc đời anh. Anh hoảng sợ. Điều đó dễ hiểu. Nhưng đây là một kẻ rất nguy hiểm mà chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn. Hắn giết hai người rồi và có thể sẽ giết thêm nhiều người nữa. Nếu anh giúp đỡ chúng tôi tìm thấy hắn, những gì chúng tôi biết về anh ở đây hôm nay chẳng cần thiết phải công khai. Không trát, không điện thoại cho vợ hay chủ anh.”

Dance liếc nhìn thám tử Baker, anh ta nói: “Tuyệt đối đúng như thế.”

Cobb thở dài. Mắt cắm xuống sàn, anh ta lẩm bẩm: “Mẹ kiếp. Ba trăm đô la chết tiệt. Vì lẽ quái quỷ gì mà tôi quay lại đó sáng hôm nay cơ chứ?”

Tham lam và ngu ngốc, Kathryn Dance nghĩ. Nhưng cô nói dịu dàng: “Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm.”

Một chút ngập ngừng. Rồi Cobb lại thở dài. “Đấy, cái chuyện điên rồ này. Chẳng nhiều nhặn gì, ý tôi là điều tôi trông thấy. Cô có thể không tin tôi. Tôi hầu như không trông thấy gì. Tôi thậm chí không trông thấy ai.”

“Nếu anh thành thật với chúng tôi, chúng tôi sẽ tin anh. Tiếp tục đi.”

“Khoảng mười giờ ba mươi, muộn hơn một chút. Sau khi tôi ra khỏi xe của… cô gái, tôi bắt đầu đi bộ đến ga tàu điện ngầm. Cô nói đúng. Tôi dừng lại và lấy điện thoại di động ra khỏi túi áo khoác. Tôi bật máy lên kiểm tra tin nhắn. Tôi nghĩ đó là lúc tiền rơi ra. Ở đầu con hẻm. Tôi liếc nhìn xuống cuối con hẻm và thấy đèn hậu của một chiếc xe.”

“Loại xe gì?”, Sachs hỏi.

“Tôi không nhìn thấy xe, chỉ đèn hậu thôi. Tôi xin thề.”

Dance tin điều này. Cô gật đầu với Sachs.

“Hẵng khoan”, Rhyme nói đột ngột. “Cuối con hẻm à?”

Rốt cuộc nhà hình sự học đã lắng nghe từ nãy tới giờ.

“Vâng. Tít cuối. Rồi đèn báo hiệu lùi bật lên và xe bắt đầu lùi về phía tôi. Người lái cho xe lùi khá nhanh nên tôi tiếp tục bước. Rồi tôi nghe thấy tiếng kít hãm xe, anh ta dừng lại và tắt máy. Anh ta vẫn ở trong con hẻm. Tôi tiếp tục bước. Tôi nghe thấy tiếng cửa xe đóng đánh sầm và một âm thanh. Giống như là một thanh kim loại lớn rơi xuống đất. Tất cả đấy. Tôi không trông thấy ai. Tôi chỉ đi qua con hẻm vào thời điểm ấy. Thực sự là vậy.”

Rhyme liếc nhìn Dance, cô gật đầu tỏ ý rằng Cobb nói thật.

“Hãy mô tả cô gái điếm”, Dennis Baker nói. “Tôi cũng muốn hỏi cả cô ta.”

Cobb trả lời vội vã: “Ở tuổi ba mươi, người Mỹ gốc Phi, tóc quăn ngắn. Tôi nghĩ xe của cô ta là xe Honda. Tôi không nhìn thấy biển số xe. Cô ta đẹp.” Anh ta bổ sung chi tiết này như một lời bào chữa không thỏa đáng.

“Tên?”

Cobb thở dài. “Tefanee. Hai chữ e chứ không phải y.”

Rhyme khẽ cười. “Gọi cho Vice, tìm hiểu về các cô gái làm việc thường xuyên trên phố Cedar.” Anh yêu cầu chàng phụ tá mảnh khảnh, trán đã bắt đầu hói.

Dance đặt thêm một số câu hỏi, rồi gật đầu, liếc nhìn Lon Sellitto và nói: “Tôi nghĩ ông Cobb đây đã trình bày với chúng ta tất cả những gì ông ấy biết.” Cô nhìn người đàn ông, nói vẻ chân thành: “Xin cảm ơn anh đã hợp tác.”

Cobb chớp mắt, không chắc chắn về ẩn ý trong câu nói của Dance. Nhưng Kathryn Dance chẳng hề mỉa mai. Cô chưa từng cảm thấy bị xúc phạm bởi lời lẽ hay ánh mắt giận dữ (đôi khi thậm chí cả nước bọt hoặc các vật bị ném) từ đối tượng. Một người phỏng vấn dựa trên giám định ngôn ngữ hình thể phải nhớ rằng kẻ thù không bao giờ là chính bản thân đối tượng mà đơn giản là những chướng ngại vật trước sự thật mà anh ta dựng lên, đôi khi thậm chí do vô tình.

Sellitto, Baker và Sachs thảo luận vài phút rồi quyết định thả người đàn ông mà không buộc tội anh ta. Kẻ “háo ngọt” đi ra, với ánh mắt dành cho Dance mà cô đã rất quen thuộc: có phần kính sợ, có phần ghê tởm, có phần căm ghét đơn thuần.

Sau khi Cobb đi ra rồi, Rhyme, lúc ấy đang nhìn một sơ đồ hiện trường vụ án mạng trong con hẻm, nói: “Điều này thật lạ lùng. Vì sao đó mà đối tượng lại quyết định rằng hắn không muốn bỏ nạn nhân ở cuối con hẻm, nên hắn đã lùi xe và chọn vị trí cách vỉa hè bốn mét rưỡi… Một thực tế đáng quan tâm. Nhưng liệu nó có hữu ích chăng?”

Sachs gật đầu. “Anh biết đấy, có thể. Phía cuối con hẻm xem ra không bị tuyết phủ tí nào. Họ hẳn đã không rải muối ở đó. Chúng ta có thể lấy được dấu chân hay vết bánh xe.”

Rhyme gọi một cú điện thoại – bằng chương trình nhận diện tiếng nói đầy ấn tượng – và cử mấy cảnh sát quay lại hiện trường vụ án. Không lâu sau, họ gọi lại và báo cáo rằng họ tìm thấy các vết bánh xe còn mới phía cuối con hẻm, cùng một sợi vải màu nâu dường như phù hợp với những sợi vải bám trên giày và đồng hồ đeo tay của nạn nhân. Họ tải các bức ảnh kĩ thuật số chụp sợi vải và vết bánh xe, kèm theo các kích thước giữa trục trước và trục sau xe lên mạng.

Mặc dù ít quan tâm đến lĩnh vực giám định vật chứng, Dance thấy thứ vũ ba lê này làm cho mình tò mò. Rhyme và Sachs là một nhóm rất hiểu biế. Cô không thể nào không bị ấn tượng khi mười phút sau đó, người kĩ thuật viên, Mel Cooper, rời mắt khỏi màn hình máy vi tính, nói: “Với kích thước giữa trục trước và trục sau xe, cùng những sợi vải màu nâu ấy, nó có lẽ là một chiếc Ford Explorer, đã chạy hai, ba năm.”

“Nhiều khả năng là ba năm rồi”, Rhyme nói.

Tại sao anh ta phán đoán như vậy? Dance băn khoăn.

Sachs nhìn thấy cái cau mày của cô và trả lời: “Phanh xe kêu to.”

À.

Sellitto quay sang Dance. “Rất tốt, Kathryn ạ. Chị đã phát giác ra sự gian dối của anh ta.”

Sachs hỏi: “Chị làm thế nào vậy?”

Dance giải thích quá trình cô đã áp dụng. “Tôi bắt đầu lục lọi. Tôi kiểm tra lại tất cả những gì anh ta khai với chúng ta, quán bar sau giờ làm việc, ga tàu điện ngầm, chỗ tiền mặt và cái kẹp tiền, con hẻm, trình tự các sự kiện xảy ra và địa thế khu vực. Tôi xem xét biểu hiện cơ thể của anh ta ở mỗi câu trả lời. Chỗ tiền mặt là vấn đề đặc biệt nhạy cảm. Anh ta đang làm gì không nên làm với chỗ tiền ấy? Một người kinh doanh thuộc loại hướng ngoại, đầy tự tôn như anh ta? Tôi xác định hoặc là ma túy hoặc là sex. Nhưng một người môi giới chứng khoán phố Wall không mua ma túy ngoài phố, anh ta phải có mối. Vậy còn lại gái. Đơn giản thế thôi.”

“Một cách xác định hữu hiệu, anh có nghĩ vậy không, Lincoln?”, Cooper hỏi.

Dance ngạc nhiên thấy nhà hình sự học có thể nhún vai. Rồi anh nói lửng lơ: “Xác định giỏi đấy. Chúng ta đã có một số chứng cứ mà đáng lẽ phải mất thêm thời gian chúng ta mới có được.” Cặp mắt anh quay lại với tấm bảng.

“Linc, thôi nào. Chúng ta đã có nhãn hiệu xe của thủ phạm. Nếu không nhờ cô ấy chúng ta sẽ không có nó đâu.” Sellitto bảo Dance: “Chị đừng tự ái. Anh ấy vốn vẫn không tin tưởng các nhân chứng.”

Dance gật đầu. “Anh nói buồn cười. Tôi vẫn giảng bài cho mọi người đúng như thế mà: rằng công việc chính của cảnh sát chúng ta không phải là ném những kẻ xấu xa vào tù mà là tìm kiếm sự thật.” Cô cũng nhún vai. “Chúng tôi vừa có một vụ ở hành án. Một thám tử tư bạn tôi đã điều tra ba năm cho luật sư của anh ta để đi đến tận cùng sự thật. Anh ta hoàn toàn không chấp nhận mọi việc như vẻ bề ngoài. Người tử tù cách cái chết mười ba tiếng đồng hồ và hóa ra anh ta vô tội… Nếu viên thám tử tư ấy không duy trì tìm kiếm sự thật suốt mấy năm, người tử tù bây giờ đã hết đời.”

Rhyme lên tiếng: “Tôi biết chuyện xảy ra. Tòa đã buộc tội bị cáo vì lời khai man của nhân chứng, và phân tích ADN trả tự do cho anh ta, đúng không?”

Dance quay sang đáp: “Không, thực tế vụ án không có nhân chứng. Thủ phạm thật đã giăng những vật chứng giả.”

“Chuyện đó thì sao”, Sellitto nói, ông ta và Sachs đều cười. Rhyme liếc nhìn cả hai với vẻ lạnh nhạt. “Được rồi”, anh nói với Dance. “Thật may mắn là tình hình đã được xử lí theo cách tốt nhất… Bây giờ tôi phải quay lại với công việc.” Và cặp mắt anh quay lại với tấm bảng trắng.

Dance chào tạm biệt tất cả và mặc áo khoác khi Lon Sellitto tiễn cô ra cửa. Ở ngoài phố, Dance đi bộ tới lề đường, đứng lại và đeo tai nghe iPod rồi bật máy. Danh sách các bài hát chọn lọc này bao gồm rock chuyển thể từ dân ca, các bài hát Ireland và một số bản rock đích thực của Rolling Stones (một lần tại một chương trình ca nhạc cô đã thực hiện phân tích ngôn ngữ hình thể đối với Mick Jagger và Keith Richards để hướng dẫn cho các bạn cô).

Cô đang vẫy một chiếc taxi thì nhận ra một cảm giác kì lạ không yên trong lòng. Lát sau cô mới xác định được cảm giác đó. Cô đang cảm thấy nuối tiếc day dứt rằng sự liên quan ngắn ngủi của cô với vụ Thợ Đồng Hồ đã kết thúc.

Joanne Harper đang vui vẻ.

Cô gái ba mươi hai tuổi vóc dáng gọn ghẽ có mặt tại xưởng hoa cách cửa hiệu bán lẻ khu SoHo của cô mấy khối phố về phía đông. Cô đang ở giữa những người bạn.

Đó là nói những bông hồng, địa lan, thiên điểu, loa kèn và hồng môn.

Xưởng hoa là một khu vực tầng trệt rộng trong một nhà kho cũ. Nó lạnh lẽo, gió lùa hun hút, và Joanne giữ cho hầu hết các phòng tối để bảo quản hoa. Tuy nhiên, cô vẫn thích nơi này, cái mát mẻ, ánh sáng lờ mờ, mùi tử đinh hương và phân bón. Phải, ô ở giữa Manhattan, nhưng nó dường như giống một khu rừng yên tĩnh hơn.

Cô gái bỏ thêm mốp cắm hoa vào chiếc bình gốm lớn trước mặt cô.

Tâm trạng vui vẻ.

Vì một số lí do: vì cô đang làm cho một dự án sinh lợi mà cô có toàn quyền thiết kế.

Và vì cảm giác thích thú sau cuộc hẹn hò buổi tối hôm trước.

Với Kevin, người biết rằng lan tiêu cần phải được thoát nước cực kì tốt để phát triển mạnh, rằng sống đời nở hoa đỏ thẫm dọc các con đường suốt tháng Chín, và rằng Donn Clendenon đã đánh ba quả qua tường giúp đội Mets đánh bại đội Baltimore năm 1969 (cha cô chụp được hai trong số ba quả đó bằng chiếc Kodak của ông).

Chàng trai dễ thương Kevin, Kevin với lúm đồng tiền và nụ cười tươi tắn. Hiện không có và chưa bao giờ có vợ cả.

Liệu câu chuyện còn có thể tốt đẹp hơn thế chăng?

Một cái bóng lướt ngang cửa sổ đằng trước, Joanne liếc nhìn lên, nhưng không thấy ai. Đây là quãng vắng vẻ về phía đông của phố Spring và hiếm có ai đi bộ qua. Cô kiểm tra cẩn thận các cửa sổ. Thực sự phải gọi Ramon đến rửa chúng thôi. Được, cô sẽ đợi tới lúc trời ấm hơn.

Joanne tiếp tục bố trí bình hoa và lại nghĩ về Kevin. Liệu họ có đi đến chuyện gì không?

Có thể.

Có thể không.

Chẳng thành vấn đề cho lắm (ừ, chắc chắn là thành vấn đề rồi, nhưng một phụ nữ thành phố độc thân ba mươi hai tuổi thì phải chọn đường lối chẳng-thành-vấn-đề-gì-cho-lắm). Tuy nhiên, điều quan trọng là Joanne thích được ở bên cạnh anh ta. Đã chơi trò hẹn hò hậu li dị ở Manhattan mấy năm nay, cô cảm thấy mình có quyền hưởng chút vui vẻ với một người đàn ông khác.

Joanne Harper, vẻ bề ngoài giống nữ diễn viên tóc hoe hoe đỏ trong bộ phim Sex and the city đến mảnh đết này cách đây mười năm để trở thành họa sĩ nổi tiếng, sống tại xưởng vẽ phía trước một cửa hiệu ở East Village và bán tranh trong một phòng tranh khu Tribecca. Nhưng thế giới nghệ thuật có những tư tưởng khác. Nó quá khắc nghiệt, quá nhỏ nhen, và, ờ, cũng quá phi nghệ thuật. Nó phải gây sốc, phiền phức, rắc rối, biết làm tình hoặc giàu có. Joanne từ bỏ nghệ thuật và thử làm thiết kế đồ họa một thời gian nhưng rồi lại không bằng lòng. Với ý thích bất chợt, cô nhận công việc tại một công ti tạo phong cảnh nội thất và cảm thấy yêu công việc này. Cô quyết định rằng nếu cô có chết đói thì ít nhất cô cũng chết đói khi đang làm những công việc cô say mê.

Tuy nhiên, chuyện hài hước là Joanne đã thành công. Cô xoay xở mở được một công ti riêng mấy năm trước. Nó bao gồm cả cửa hiệu bán lẻ trên đường Broadway và chỗ này – cơ sở thương mại phố Spring, phục vụ các công ti và các tổ chức, cung cấp hoa hàng ngày cho các văn phòng, thiết kế những mẫu hoa lớn cho các cuộc hội họp, lễ lạt và sự kiện đặc biệt.

Joanne tiếp tục bố trí thêm mốp, lá, cành bạch đàn và cẩm thạch cho các bình hoa – hoa sẽ được cắm vào sau cùng. Joanne thoáng rùng mình vì khí lạnh. Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ treo trên bức tường lờ mờ tối của xưởng. Cũng chẳng phải đợi chờ quá lâu, cô nghĩ. Hôm nay Kevin phải đi giao hàng vài nơi trong thành phố. Buổi sáng, anh đã gọi điện cho cô và bảo cô rằng buổi chiều anh sẽ tới cửa hiệu. Và, này, nếu em không bận bịu lúc áy, mình sẽ đi uống cappuccino hay cái gì đó.

Cà phê vào hôm sau một cuộc hẹn hò à? Bây giờ thì…

Một cái bóng nữa đổ trên ô cửa sổ.

Joanne lại vội vã ngẩng nhìn. Không có ai. Nhưng cô cảm thấy lo lắng. Ánh mắt cô nhìn sang cửa chính mà cô chẳng bao giờ sử dụng. Những chiếc hộp được xếp thành chồng phía trước cánh cửa. Đã khóa… hay chưa nhỉ?

Joanne nheo mắt nhưng ánh mặt trời chói khiến cô không thể nói nó đã được khóa chưa. Cô bước vòng qua chiếc bàn cắm hoa để đến kiểm tra.

Cô thử cái chốt cửa. Ừ, đã khóa rồi. Joanne ngẩng nhìn và há hốc miệng.

Cách cô chỉ khoảng một mét, trên vỉa hè phía bên ngoài, một gã đàn ông khổng lồ đang nhìn chằm chằm vào cô. Cao và to béo, anh ta đang ngả người về phía trước và nhìn chằm chằm qua ô cửa sổ với cặp mắt được che chắn. Anh ta đeo chiếc kính râm kiểu phi công đã lỗi mốt có tròng phản quang, đội chiếc mũ chơi bóng chày và mặc chiếc áo khoác ngắn bằng da liễn mũ trùm màu kem. Vì ánh nắng chói và lớp bụi bám trên cửa sổ, anh ta không thể nhìn thấy cô đang ở ngay trước mặt.

Joanne đông cứng người lại. Thi thoảng cũng có người nhìn trộm, tò mò về chỗ này, nhưng một sự tập trung cao độ trong tư thế của anh ta, trong cái cách anh ta lảng vảng, khiến cô rất lo lắng. Cửa chính không làm bằng loại kính đặc biệt, bất cứ ai với một chiếc búa hay một viên gạch đều đột nhập được. Và với việc rất ít người đi bộ qua lại khu vực này của SoHo, một cuộc tấn công có thể xảy ra mà hoàn toàn chẳng bị chú ý.

Joanne lùi lại.

Có lẽ cặp mắt anh ta đã quen dần với ánh sáng hoặc anh ta tìm thấy một khoảng kính cửa sổ sạch, anh ta nhận ra cô. Anh ta giật mình lùi lại, ngạc nhiên. Xem chừng anh ta cân nhắc gì đó. Rồi anh ta quay đi và biến mất.

Bước lên phía trước, Joanne áp mặt vào cửa sổ, nhưng cô không thể nhìn thấy anh ta đã đi đằng nào. Ở anh ta có vẻ gì đó ghê rợn – cái cách anh ta vừa đứng đấy, lom khom cúi về phía trước, đầu nghểnh, hai bàn tay nhét trong túi áo khoác, chiếu ánh mắt chằm chằm qua cặp kính râm kì quái.

Joanne xoay những cái bình sang bên cạnh và lại nhìn ra ngoài. Không thấy bóng dáng gã đàn ông. Tuy nhiên, cô chẳng thể nào cưỡng được ý muốn rời khỏi xưởng và đi về cửa hiệu, kiểm tra các thứ hóa đơn buổi sáng và tán gẫu với nhân viên của cô cho tới lúc Kevin đến. Không thấy bóng dáng anh ta. Cô bắt đầu bước về phía Broadway, theo hướng tây, hướng gã đàn ông to lớn biến mất. Cô bước trong một luồng ánh nắng chói chang, có vẻ gần như nóng. Ánh sáng rực rỡ khiến cô lóa mắt. Cô nheo mắt, lo sợ rằng mình không nhìn được rõ. Joanne dừng bước, chẳng muốn đi qua con hẻm bên trên phố kia. Liệu gã đàn ông có rẽ vào đấy không? Liệu anh ta có đang núp ở đấy, chờ cô không?

Joanne quyết định đi theo hướng đông, hướng ngược lại, và theo phố Price vòng sang Broadway. Lối ấy còn vắng vẻ hơn, nhưng ít nhất cô sẽ không phải đi qua bất cứ con hẻm nào. Cô kéo cho áo khoác quấn chặt thêm xung quanh người và vội vã bước, đầu cúi xuống. Hình ảnh gã đàn ông to béo nhanh chóng tuột khỏi tâm trí cô và cô lại nghĩ về Kevin.

Dennis Baker vào khu trung tâm để báo cáo những tiến triển trong cuộc điều tra, những thành viên khác của nhóm tiếp tục xem xét các chứng cứ.

Máy fax kêu và Rhyme ngẩng nhìn cái máy một cách háo hức với hi vọng có thông tin gì đó hữu ích. Nhưng bản fax là gửi cho Amelia Sachs. Rhyme quan sát cô kĩ càng trong lúc cô đọc bản fax. Anh biết vẻ mặt ấy. Giống như một con chó đuổi theo một con cáo vậy.

“Gì đấy, Sachs?”

Cô lắc đầu. “Phân tích chứng cứ thu được tại nhà Ben Creeley ở Westchester. Hệ thống hợp nhất nhận diện dấu vân tay tự đồng không cung cấp kết quả gì nhưng phát hiện những dấu vết của chất liệu da trên một số chi tiết lò sưởi và trên bàn làm việc của Creeley. Ai đã mở các ngăn kéo bàn làm việc khi đi găng?”

Tất nhiên, chẳng có cơ sở dữ liệu về dấu găng tay, nhưng nếu Sachs tìm thấy một đôi trong đống đồ vật của một đối tượng nào đấy phù hợp với những dấu vết này, đó sẽ là chứng cứ gián tiếp đáng tin cậy đặt hắn vào hiện trường, cũng đáng quy gần bằng một dấu vân tay rõ ràng.

Cô tiếp tục đọc. “Và thứ bùn em phát hiện ra phía trước lò sưởi thì sao? Nó không phù hợp với loại đất ở sân nhà Creeley. Nồng độ acid cao hơn và chứa một số chất ô nhiễm. Có vẻ là từ một khu công nghiệp.” Sachs tiếp tục. “Cũng thấy dấu hiệu của cocaine được đốt trong lò sưởi.” Cô nhìn Rhyme và nở nụ cười châm biếm. “Thật đáng thất vọng nếu nạn nhân vụ án mạng đầu tiên của em hóa ra lại tệ nạn đến vậy.”

Rhyme nhún vai. “Nữ tu sĩ hay kẻ buôn bán ma túy, án mạng vẫn là án mạng thôi, Sachs. Em còn có gì nữa nào?”

“Chỗ tro em phát hiện ra trong lò sưởi, phòng kĩ thuật không khôi phục lại được nhiều nhưng họ tìm thấy những cái này.” Sachs giơ lên bản chụp các loại giấy tờ tài chính, trông giống như một bảng tính hoặc một sổ cái, xem chừng thể hiện những dữ liệu nhập vào tổng cộng hàng triệu đô la. “Họ tìm thấy một phần của một logo hay biểu tượng gì đó trên số giấy tờ. Nhân viên kĩ thuật vẫn đang xác định. Và họ sẽ gửi các dữ liệu tài chính đến một nhân viên giám định kế toán, xem anh ta có hiểu về chúng không. Ngoài ra, họ tìm thấy một phần lịch công việc của ông ta. Những thứ đại loại như là thay dầu xe, hẹn cắt tóc… dù sao, cũng khó mà là lịch cho cái tuần anh chuẩn bị tự tử. Rồi vào hôm trước khi chết, ông ta đã tới Tửu quán Thánh James.” Cô đập đập tờ giấy – bản khôi phục lại lịch làm việc của ông ta.

Một lời nhắn do Nancy Simpson gửi mô tả về quán rượu kia. “Quán ở phố Chín Đông. Một khu vực nhớp nhúa. Tại sao một viên kế toán giàu có lại đến đó? Xem ra lạ lùng.”

“Cũng không hẳn.”

Sachs liếc nhìn Rhyme rồi bước tới góc phòng. Anh hiểu ý và lăn chiếcxe Storm Arrow màu đỏ đi theo.

Sachs khom người xuống bên cạnh anh. Anh phân vân tự hỏi liệu cô có cầm tay anh không (kể từ khi một vài cảm giác trở lại với cổ tay và những ngón tay bên phải của anh, việc cầm tay đã trở nên vô cùng quan trọng đối với cả hai). Nhưng có một ranh giới rất mong manh giữa đời tư và công việc của họ và bây giờ cô đang duy trì ở khía cạnh nghề nghiệp thuần túy.

“Rhyme”, Sachs thì thầm.

“Anh biết…”

“Hãy để em làm xong.”

Rhyme hầm hừ trong họng.

“Em phải điều tra vụ này.”

“Hãy xác định sự ưu tiên. Vụ của em ít nghiêm trọng hơn vụ Thợ Đồng Hồ, Sachs ạ. Dù chuyện gì đã xảy ra đối với Creeley, thậm chí nếu ông ta bị giết, đối tượng có lẽ cũng không phải là kẻ giết người hàng loạt. Thợ Đồng Hồ thì là một kẻ như thế. Hắn phải là ưu tiên của chúng ta. Bất cứ chứng cứ gì về Creeley cũng vẫn ở đó cho tới lúc chúng ta tóm xong gã kia.”

Sachs lắc đầu. “Em không nghĩ thế, Rhyme. Em đã nhấn nút. Em đã bắt đầu đặt câu hỏi. Anh biết những cái đó có tác động như thế nào. Người ta đang bàn tán về vụ án rồi. Chứng cứ và các đối tượng có thể biến mất ngay lúc này.”

“Và Thợ Đồng Hồ cũng có thể đang nhằm vào một nạn nhân khác ngay lúc này. Hắn có thể đang giết một người khác ngay lúc này… Và, hãy tin anh, nếu có một án mạng nữa và chúng ta để tuột mất bóng chúng ta sẽ phải trả giá đắt đấy. Baker bảo anh rằng yêu cầu đặt ra cho chúng ta là từ cấp cao nhất. ”

Yêu cầu…

“Chúng ta không để tuột mất bóng. Chúng ta có một hiện trường khác, em sẽ giải quyết nó. Em sẽ ở đó, nếu Bo Haumann tổ chức một hoạt động mang tính chiến thuật.”

Rhyme cau mày một cách cường điệu. “Chiến thuật? Em không dùng món tráng miệng chừng nào em chưa ăn xong món rau.”

Sachs bật cười, và lúc này Rhyme đã cảm thấy sức nặng của bàn tay cô. “Nào, Rhyme, chúng ta ở trong ngành cảnh sát. Chẳng ai một lúc chỉ giải quyết một vụ. Hầu hết các ngăn kéo bàn của bộ phận Các vụ trọng án đều chất đầy hàng tá hồ sơ. Em có thể xử lí được hai vụ.”

Lo lắng bởi một linh tính anh không xác định được rõ ràng, Rhyme ngập ngừng rồi nói: “Chúng ta hãy hi vọng, Sachs ạ. Chúng ta hãy hi vọng.”

Đó là lời chúc tốt đẹp nhất anh có thể nói với Sachs.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3