Trăng lạnh - Phần III - Chương 38 - 39
CHƯƠNG 38
Bước vào hội trường trên tầng sáu cùng mười bảy quân nhân khác từ tất cả các đơn vị quân đội, trung sĩ lục quân Mỹ Lucy Richter thoáng mỉm cười với chồng cô. Cô cũng nháy mắt với các thành viên gia đình – cha mẹ và bà dì – đang ngồi phía bên kia căn phòng.
Lời cảm ơn có lẽ là hơi quá ngắn gọn, hơi xa cách. Nhưng Lucy không ở đây với tư cách vợ của Bob hay con gái, cháu gái. Cô ở đây với tư cách một quân nhân được tuyên dương, với sự có mặt của các sĩ quan cấp trên, các đồng đội nam cũng như nữ.
Lúc này, khi gia đình và bạn bè đã lên hội trường, các quân nhân vẫn tụ tập dưới gác. Chờ đợi tới phút tiến vào đầy kiêu hãnh, Lucy nói chuyện phiếm với một chàng trai trẻ, lính phi công đến từ Texas và trở về Mỹ để điều trị y tế (một quả lựu đạn rocket chết tiệt đã đập trúng ngực anh ta, trước khi nẩy bật ra phát nổ cách đó vài thước). Anh ta nói rất háo hức được trở về nhà.
“Nhà à?”, Lucyhỏi. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ tái ngũ mà.”
Anh ta nháy mắt. “Tôi sẽ tái ngũ. Tôi muốn nói tới đơn vị của tôi. Đó chính là nhà.”
Băn khoăn đứng trước chiếc ghế của mình, Lucy liếc nhìn cánh phóng viên. Cái cách họ quan sát xung quanh, hau háu tìm kiếm cơ hội viết bài y như những tay bắn tỉa tim kiếm mục tiêu khiến cho cô cảm thấy căng thẳng. Rồi cô gạt họ ra khỏi đầu óc và chăm chú dồn ánh mắt vào các bức ảnh treo trên tường phục vụ buổi lễ. Những hình ảnh ái quốc. Cô xúc động trước hình ảnh lá cờ Mỹ, ảnh chụp tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại, các biểu ngữ và biểu trưng quân đội, các sĩ quan đeo huân, huy chương cùng những hàng vạch thể hiện những khoảng thời gian và địa điểm họ đi chiến đấu.
Và suốt trong lúc đó, tâm trạng cân nhắc diễn ra dữ dội. Suy nghĩ về điều Kathryn Dance nói, Lucytự hỏi: Vậy sự thật đối với mình là gì?
Quay lại vùng đất đầy sương mù đắng nghét?
Hay cứ ở đây?
Có hay không?
Những cánh cửa phụ mở ra và hai người đàn ông ánh mắt linh lợi – người thuộc Cơ quan Mật vụ – bước vào, theo sau là sáu người cả nam lẫn nữ mặc com lê hoặc quân phục với phù hiệu nhân viên cao cấp, các dải băng màu, huân, huy chương phủ kín ngực. Lucy nhận ra mấy người này là những nhân vật quan trọng từ Washington và chính quyền thành phố New York, tuy nhiên, cô cảm thấy xáo động hơn trước sự hiện diện của những nhân vật quan trọng từ Lầu Năm góc, bởi họ đến từ cái thế giới mà cô đã biến nó trở thành một phần cuộc đời mình.
Tâm trạng cân nhắc đầy mệt mỏi vẫn diễn ra trong cô.
Có hay không...
Sự thật… Sự thật là gì?
Khi các quan chức đã ngồi xuống, một vị tướng từ New Jersey nói mấy câu bình luận và giới thiệu một người đàn ông đẹp trai, đĩnh đạc, mặc quân phục màu xanh lam thẫm. TướngRoger Poulin, Tổng Tham mưu Trưởng Liên quân, đứng dậy và bước tới trước cái mic.
Poulin gật đầu với người dẫn chương trình, rồi với những người ngồi trong căn phòng. Bằng một giọng trầm, ông nói: “Thưa các tướng lĩnh, các vị lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, và thành phố New York, các anh chị em binh sĩ, cùng các vị khách quý… Tôi vui mừng được chào đón các vị đã có mặt tại đây ngày hôm nay, dự buổi lễ long trọng này, tuyên dương mười tám cá nhân dũng cảm, những con người chấp nhận nguy hiểm tới tính mạng và thể hiện tinh thần sẵn sàng hi sinh cao nhất, để bảo vệ tự do cho đất nước chúng ta, và để đưa sự nghiệp dân chủ đến khắp nơi trên trái đất.”
Khách khứa vỗ tay nhiệt liệt và đứng cả dậy.
Tiếng ồn ào tắt dần. Tướng Poulin tiếp tục bài phát biểu. Đầu tiên, Lucy Richter lắng nghe, nhưng rồi cô dần dần mất tập trung. Cô nhìn những người dân thường trong căn phòng – gia đình và bạn bè các quân nhân. Những người như cha, mẹ, chồng, và dì cô, những người vợ, người chổng, con cái, cha mẹ, ông bà, bè bạn.
Những con người này sẽ rời khỏi đây sau buổi lễ, trở về với công việc, với ngôi nhà của họ. Họ sẽ quay lại sống cuộc đời ngoài kia từng ngày, từng giờ, từng phút.
Tất nhiên, nghi thức quân đội không cho phép cô mỉm cười, nhưng Lucy Richter có thể cảm thấy gương mặt cô đang giãn ra và sự căng thẳng trên đôi vai cô tan biến tựa sương mù đắng nghét tan biến theo một cơn gió nóng bỏng. Nỗi tức giận, chán nản, phủ nhận – tất cả những gì Kathryn Dance bảo cô hãy xem xét – đột ngột tan biến.
Cô nhắm mắt lại chốc lát, rồi sự chú ý trở về với người đàn ông mà, sau Tổng thống Hợp chủng quốc, là vị chỉ huy cao nhất của cô, hiểu rõ ràng rằng, dù bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời cô, cô cũng đã quy định và cô bằng lòng với quyết định ấy.
Charles Hale ở trong phòng vệ sinh nam một quán cà phê gần tòa nhà HUD. Trong cái ngăn bẩn thỉu, gã rút từ dưới áo lót ra một chiếc túi đựng rác. Gã cởi bộ quân phục, thay bằng quần bò, áo len, áo khoác ngắn, đeo găng tay, những thứ gã vừa mua xong. Gã nhét bộ quân phục, áo khoác dài và mũ vào chiếc túi đựng rác, giữ lại khẩu súng. Gã tháo pin và sim khỏi điện thoại di động, nhét cả vào chiếc túi. Rồi, đợi tới lúc khu vệ sinh không có ai, gã tống chiếc túi vào thùng rác, bước ra khỏi quán cà phê.
Khi đã lại ở ngoài phố, Hale mua một thẻ điện thoại trả trước bằng tiền mặt, đi thơ thẩn dọc theo vỉa hè rợp bóng cây cho tới lúc cách tòa nhà HUD ba khối phố. Từ vị trí thuận lợi này, gã nhìn được một khoảng hẹp phía sau tòa nhà và con hẻm nơi người ta phát hiện “nạn nhân” đầu tiên của Thợ Đồng Hồ. Gã có thể quan sát một ô cửa sổ màu bạc của hội trường trên tầng sáu nơi buổi lễ đang diễn ra.
Chiếc áo khoác mỏng và Hale nghĩ mình sẽ bị lạnh, nhưng lúc này trong tâm trạng phấn chấn, gã không cảm thấy khó chịu gì. Gã nhìn đồng hồ đeo tay hiện giờ bằng con số, nó đã được điều chinh cho khớp với thiết bị hẹn giờ của ngòi nổ hai quả bom.
Bây giờ là 12:14:19. Buổi lễ bắt đầu lúc mười hai giờ. Một điều Hale rút ra được từ sự nghiên cứu kĩ lưỡng là khi đánh bom, hãy luôn luôn để cho người ta yên vị đã, để cho những người chậm trễ tới kịp, để cho những nhân viên bảo vệ bắt đầu lơ đễnh.
12:14:29.
Một khía cạnh thú vị của hai quả bom lần này, một cái gì đó ngẫu nhiên thôi, gã nghĩ thầm, là Joanne, cô thợ cắm hoa, đã đổ đầy hai chiếc bình bằng hàng trăm viên bi thủy tinh bé tí. Bất cứ ai nếu chưa chết hoặc chưa bị thương nặng vì chỗ thuốc nổ cũng sẽ bị găm những viên đạn thủy tinh đó.
12:14:44.
Hale thấy mình quỳ sụp xuống, cúi về phía trước. Luôn luôn có khả năng một cái gì đó gặp trục trặc – bộ phận an ninh tiến hành rà soát bom mìn vào phút cuối cùng hay ai đấy trông thấy gã trên camera đi vào tòa nhà rồi nhanh chóng đi ra rất đáng ngờ vực.
12:14:52.
Tuy nhiên, nguy cơ thất bại khiến thắng lợi trong cuộc chiến đấu với nỗi buồn chán thêm ngọt ngào. Cặp mắt Hale dán chặt vào con hẻm đằng sau tòa nhà HUD.
12:14:55.
12:14:56.
12:14:57.
12:14-58.
12:14. 59.
12:15:00.
Một nắm đấm khổng lồ của lửa và các mành vỡ im lìm phá tung cửa sổ hội trường. Nửa giây sau, mới đến tiếng nổ long trời lở đất.
Những giọng nói lao xao xung quanh Hale. “Ôi, lạy Chúa. Cái gì...?” Những giọng la hét. “Nhìn kìa! Cái gì thế?”
“Lạy Chúa, không!”
“Gọi 911! Kẻ nào đó...”
Người đi bộ túm tụm trên vỉa hè, nhìn chăm chăm.
“Bom à? Máy bay à?”
Vẻ lo lắng, Hale lắc đầu, nấn ná một chút thưởng thức hương vị của thành công. Vụ nổ xem chừng lớn hơn gã dự đoán tức người chết sẽ nhiều hơn số lượng mà Charlotte và Bud hi vọng. Hầu như không thấy được ai đó có thể sống sót bằng cách nào.
Hale chậm rãi quay đi và tiếp tục bước ngược lên bên trên phố, nơi gã lại xuống ga tàu điện ngầm, bắt chuyên tàu tiếp theo đến khu Uptown. Gã lên khỏi ga và nhằm hướng khách sạn nhà Allerton đang ở. Tại đó, gã sẽ lấy nốt tiền công.
Charles Hale cảm thấy thỏa mãn. Gã tạm thời ngăn chặn được nỗi buồn chán, đồng thời kiếm được một món lớn.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là sự tinh vi hết sức hấp dẫn của việc gã vừa làm. Gã đã nghĩ ra cái kế hoạch được thực hiện thật hoàn hảo – giống như chiếc đồng hồ, gã tự nhủ, thích thú với hình ảnh ví von đó.
CHƯƠNG 39
“Ôi, cảm ơn”, Charlotte thì thầm, với cả Jesus lẫn gã đàn ông đã giúp đỡ bọn ả thực hiện thành công nhiệm vụ.
Ả ngồi chúi về phía trước, nhìn chăm chăm màn hình ti vi. Phần tin tức đặc biệt thông báo về việc sơ tán bảo tàng Mỹ thuật và yêu cầu các phương tiện giao thông công cộng trong khu vực ngừng hoạt động được thay thế bằng một tin tức khác – vụ đánh bom tại tòa nhà HUD. Charlotte siết chặt bàn tay chồng. Bud vươn sang hôn ả. Gã mỉm cười như một thằng bé con.
Nữ biên tập viên chương trình tin tức – mặc dù sung sướng vì vào đúng ca của mình lại xảy ra sự kiện to tát thế – trông nghiêm nghị khi cô tường thuật các chi tiết: Một quả bom phát nổ bên trong tòa văn phòng HUD, nơi nhiều quan chức cao cấp chính phủ và quân đội đang tham dự một buổi lễ. Một thứ trường Bộ Ngoại giao và Tổng Tham mưu Trường Liên quân cũng có mặt. Các máy camera cho thấy khói tuôn xuống từ những cửa sổ hội trường. Thông tin quan trọng – con số thương vong – chưa được báo cáo về, tuy nhiên ít nhất năm mươi người đang ở trong căn phòng nơi quả bom phát nổ.
Một cái đầu xuất hiện trên màn hình. Mặc dù hoàn toàn chẳng nắm được mô tê gì về sự việc, anh ta vẫn kết luận rằng đây là hành động của những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan.
Họ sẽ sớm biết sự thật không phải như thế.
“Xem này, cưng. Chúng ta đã thực hiện việc đó!” Charlottegọi đứa con gái vẫn đang ở trong phòng ngủ, mê mải đọc một cuốn sách. (Cái cuốn Harry Potter vớ vẩn ấy. Charlotte đã vứt hai cuốn rồi. Con bé lại lấy đâu ra một cuốn nữa nhỉ?)
Cô gái nhỏ bực bội thở dài và tiếp tục chăm chú đọc cuốn sách.
Charlotte điên tiết. Ả những muốn xông vào phòng ngủ và vả thật mạnh vào mặt con bé. Bọn ả vừa đạt được một chiến thắng ngoạn mục mà con bé chẳng thèm bày tỏ gì ngoài sự vô lễ. Bud đã vài lần hỏi liệu gã có thể lột quần con bé ra để quật vào mông nó bằng cây gậy gỗ hồ đào không. Charlotte vốn vẫn ngần ngại, nhưng bây giờ ả đang tự hỏi phải chăng đó là ý tưởng không tồi.
Dù sao, cơn giận dữ cũng nguôi dần và ả nghĩ tới chiến thắng hôm nay của bọn ả. Ả đứng dậy. “Chúng ta nên rời khỏi đây thôi.” Ả tắt ti vi và tiếp tục sắp xếp va li. Bud bước vào phòng ngủ cùng sửa soạn đồ lề. Bọn ả sẽ lái xe tới Philadelphia, tới đó bọn ả sẽ đi máy bay quay lại St.Louis – Duncan đã bảo bọn ả sau đây đừng đến các sân bay New York. Rồi bọn ả sẽ trở về các cánh rừng rậm bang Missouri, lại bí mật hoạt động – chờ đợi cơ hội tiếp theo củng cố sự nghiệp.
Gerald Duncan sẽ tới đây sớm thôi. Gã sẽ lấy nốt tiền công và cũng rời khỏi thành phố. Charlotte tự hỏi liệu ả có thể thuyết phục gã tham gia vào sự nghiệp của bọn ả không. Ả đã nói với gã ý tường này nhưng gã chẳng thích thú, tuy nhiên gã bảo rằng gã hết sức vui vẻ được giúp đỡ bọn ả lần nữa nếu bọn ả nhằm đến bất cứ mục tiêu khó khăn nào và nếu thù lao hậu hĩnh.
Một tiếng gõ cửa.
Duncan tới rất đúng giờ.
Vừa cười to, Charlotte vừa sải bước ra mở toang cánh cửa.
“Anh đã thực hiện việc đó! Tôi…”
Nhưng những lời của ả ngưng bặt, nụ cười tắt ngấm. Người cảnh sát, đội mũ sắt màu đen và mặc áo chống đạn, xông mạnh vào. Cùng với anh ta là Amelia Sachs, tay cầm khẩu súng ngắn lớn màu đen, gương mặt giận dữ, cặp mắt nheo lại trong lúc quét ánh nhìn xung quanh căn phòng.
Năm, sáu cảnh sát khác ào theo. “Cảnh sát đây! Không động đậy, không động đậy!”
“Không!”, Charlotte gào lên. Ả xoay người bỏ chạy, nhưng chỉ được một bước trước khi bị chặn cứng lại.
Trong phòng ngủ, Bud Allerton choáng váng há hốc mồm khi nghe tiếng gào của vợ, những giọng nói gay gắt và những bước chân huỳnh huỵch. Gã đóng sầm cánh cửa, rút từ va li ra khẩu súng ngắn tự động, kéo chốt để nạp một băng đạn vào ổ.
“Không!”, con gái riêng của vợ gã kêu lên, buông rơi cuốn sách và hoảng hốt đi ra cửa.
“Im”, Bud thì thầm hằn học. Gã túm chặt cánh tay cô bé. Cô hét lên khi gã quẳng cô lên giường. Đầu cô đập vào tường và cô nằm bất tỉnh. Bud chưa bao giờ ưa con bé, chưa bao giờ ưa thái độ của nó, sự mỉa mai của nó, thói bất trị của nó. Trẻ con – đặc biệt con gái – sống trên đời này là để phục tùng hoặc nếu không phục tùng sẽ phải chịu hậu quả.
Gã ghé tai vào cánh cửa lắng nghe. Có vẻ khoảng chục cảnh sát đang ở trong phòng khách. Bud không đủ thời giờ để cầu nguyện, nhưng đủ để gã nói với Chúa đôi lời.
Chúa Jesus, Đấng Cứu thế. Chúa kính yêu của con. Cảm ơn Người vì vinh quang mà Người đã ban cho chúng con, những tín đồ chân chính. Xin hãy ban cho con sức mạnh kết liễu đời mình và mau mau bắt đầu cuộc hành trình vĩ đại với Người Xin cùng hãy để con gửi xuống địa ngục càng nhiều càng tốt những kẻ đã tới đây mạo phạm đến Người.
Có mưởi lăm viên đạn trong khẩu súng ngắn của Bud. Gã còn mang được khối cảnh sát theo gã, nếu gã vẫn vững vàng và nếu Chúa ban cho gã sức mạnh quên đi những vết thương gã sẽ phải nhận. Nhưng dù sao bọn họ cũng có quá nhiều hỏa lực. Gã cần một lợi thế.
Bud quay về phía cô bé đang khóc nức nở, ôm lấy cái đầu chảy máu. Gã bổ sung đoạn cuối vào lời cầu nguyện, với sự tử tế mà gã nghĩ là hết sức hào hiệp trong hoàn cảnh này.
Và khi Người nhận đứa trẻ này vào thiên đàng, xin hãy tha thứ cho nó vì tội lỗi chống lại Người. Nó không biết việc nó làm.
Bud đứng dậy, bước tới chỗ con gái riêng của vọ và túm tóc cô bé.
“Allerton ở trong kia hả?”, Amelia Sachs hét to vớiCharlotte, hất đầu về phía cánh cửa phòng ngủ đóng chặt.
Ả không nói gì.
“Còn cô bé?”
Dưới gác, nhân viên lễ tân chỉ cho cảnh sát dãy phòng Charlotte và Bud Allerton, cùng cô con gái, đang thuê, và mô tả cách bố trí dãy phòng này. Anh ta khá chắc chắn họ hiện ở trên gác. Anh ta nhận ra bức ảnh chụp Thợ Đồng Hồ và nói gã đàn ông đó đã đến đây vài lần nhưng như anh ta biết thì hôm nay gã chưa đến.
“Allerton đâu?”, bây giờ thì Sachs quát. Cô những muốn túm lấy ả đàn bà mà lắc.
Charlotte vẫn im lặng, trừng trừng nhìn nữ thám tử.
“Đã kiểm tra buồng tắm”, một cảnh sát thuộc Đơn vị Phản ứng nhanh nói to.
“Đã kiểm tra phòng ngủ thứ hai.”
“Đã kiểm tra gian chứa đồ”, Ron Pulaskinói to, chàng sĩ quan mảnh khảnh trông khá tức cười trong bộ áo chống đạn kềnh càng và chiếc mũ sắt.
Chỉ còn phòng ngủ với cánh cửa đóng chặt. Sachs bước tới, đứng tránh sang bên và ra hiệu cho các sĩ quan khác cũng đứng tránh sang bên để phòng luồng đạn.
“Anh kia, ở trong phòng ngủ, nghe đây! Tôi là sĩ quan cảnh sát. Hãy mở cửa ra!”
Chẳng động tĩnh gì.
Sachs thử xoay tay nắm. Không khóa. Một hơi thở sâu, súng giơ lăm lăm.
Sachs mở nhanh cửa và khom người xuống trong tư thế sẵn sàng bắn. Cô trông thấy cô bé – chính cô bé trên xe Charlotte tại hiện trường thứ nhất của Thợ Đồng Hồ. Hai tay cô bé bị trói vào nhau, mũi và miệng bị dán băng dính nhựa. Da cô bé tái xanh và cô quằn quại trên giường, sắp sửa chẳng còn oxy để thở. Chỉ một ít giây nữa cô sẽ chết ngạt.
Ron Pulaski hét to: “Nhìn kìa, cửa sổ mở.” Anh hất đầu về phía ô cửa sổ phòng ngủ. “Hắn đang tẩu thoát.”
Pulaskiđịnh nhào vào.
Sachs chộp lấy áo chống đạn của anh.
“Gì thế?”, Pulaskihỏi.
“Chưa an toàn”, Sachs quát. Cô hất đầu về phía phòng khách. “Hãy kiểm tra cầu thang thoát hiểm từ đằng kia. Xem hắn có ở bên ngoài không. Và thận trọng đấy. Hắn có thể đang nhắm bắn qua cửa sổ.”
Chàng cảnh sát trẻ chạy tới phía trước căn phòng và nhìn nhanh ra. Anh nói to:“Không có. Có lẽ đã tẩu thoát rồi.” Anh liên lạc qua bộ đàm yêu cầu các cảnh sát thuộc Đơn vị Phản ứng nhanh chốt bên ngoài kiểm tra con hẻm đằng sau khách sạn.
Sachs cân nhắc. Nhưng cô chẳng thể chờ đợi thêm nữa. Cô phải cứu cô bé. Cô sắp sửa bước vào.
Nhưng rồi Sachs dừng lại ngay. Bất chấp tình trạng ngạt thở đáng sợ, con gái của Charlotte đang gửi cho cô một thông điệp. Cô bé đang lắc đầu, mà Sachs hiểu rằng cô bé muốn nói đây là cái bẫy phục kích. Cô bé nhìn sang bên phải, ám chỉ nơi Allerton, hay ai đó, đang nấp, có thể là đang chờ đợi để nhà đạn.
Sachs khom người.
“Ai đang ở trong phòng ngủ, hãy buông vũ khí xuống. Nằm sấp xuống giữa phòng! Mau.”
Im lặng.
Cô bé tội nghiệp quằn quại, cặp mắt lồi ra.
“Buông vũ khí ngay!”
Chẳng động tĩnh gì.
Mấy cảnh sát thuộc Đơn vị Phản ứng nhanh xuất hiện. Một trong số họ cầm một quả lựu đạn loại được chế tạo gây tiếng nổ và ánh sáng nhám làm kẻ tấn công mất phương hướng. Nhưng người ta vẫn có thể bắn khi mắt lóa tai ù. Sachs lo lắng rằng gã đàn ông sẽ bắn trúng cô bé nếu gã cứ quyết định bắn bừa. Cô lắc đầu ra hiệu không sử dụng quả lựu đạn và chĩa súng qua cửa phòng ngủ. Cô phải xử lí gã kia ngay bây giò, cô bé chẳng còn thời gian nữa.
Tuy nhiên cô bé lại lắc đầu. Cô bé vùng vẫy chiến đấu với cơn co giật, và nhìn sang bên tay phải Sachs, rồi đưa ánh mắt xuống.
Mặc dù đang chết ngạt, cô bé vẫn chỉ cho Sachs hướng mục tiêu.
Sachs điều chỉnh lại mũi súng – mục tiêu ở xa về bên tay phải hơn cô phỏng đoán lúc trước. Nếu cô bắn vào vị trí dự định, đối phương sẽ biết được vị trí cô đứng và có thể sẽ bắn trúng cô bằng loạt đạn đáp trả.
Cô bé gật đầu.
Tuy nhiên, Sachs do dự. Phải chăng cô bé đang thực sự muốn nói như thế? Cô bé đang bộc lộ cái khả năng kiềm chế mà hiếm người lớn nào huy động được, và Sachs không dám hiểu sai thông điệp cô gửi đi, nguy cơ làm hại một cá nhân vô tội quá lớn.
Nhưng rồi cô nhớ lại ánh mắt cô bé cái lần đầu tiên cô trông thấy cô bé trên chiếc xe gần con hẻm phố Cedar. Ở đó, cô nhìn thấy nỗi hi vọng. Và giờ đây, cô nhìn thấy sự can đảm.
Sachs nắm chặt khẩu súng ngắn và quét một loạt sáu viên đạn về phía cô bé chỉ. Chẳng chờ đợi xem mình bắn trúng gì, cô nhảy vào căn phòng, các cảnh sát Đơn vị Phản ứng nhanh theo sau cô.
“Cứu lấy cô bé!”, Sachs hét to, quét khẩu Glock qua khu vực bên tay phải cô – buồng tắm và tủ quần áo. Một cảnh sát Đơn vị Phản ứng nhanh canh chừng bằng khẩu súng ngắn MP-5 trong lúc các cảnh sát khác kéo cô bé xuống vị trí an toàn trên sàn và bóc những miếng băng dính nhựa khỏi mặt cô. Sachs nghe thấy tiếng hổn hển hít vào của cô bé, rồi tiếng nức nở.
Sachs mở tung cánh cửa tủ quần áo và bước tránh sang bên khi xác gã đàn ông – bị bắn bốn phát – đổ nhào ra ngoài. Cô đá khẩu súng văng sang bên và kiểm tra tủ, buồng tắm, rồi – không để sơ sẩy – ngăn tắm vòi hoa sen, gầm giường, cả cầu thang thoát hiểm nữa.
Một phút sau, toàn bộ dãy phòng đã được kiểm tra. Charlotte, mặt đỏ bừng vì tức tối và khóc lóc, bị còng tay ngồi trên đi văng, còn cô gái nhỏ thì ở ngoài hàng lang, có các nhân viên y tế tiếp oxy, họ thông báo rằng cô bé không bị thương tích gì nghiêm trọng.
Charlotte chẳng chịu khai một lời về Thợ Đồng Hồ, và việc lục soát sơ bộ các căn phòng chưa cho thấy nơi hắn có thể trú ngụ. Sachs phát hiện được chiếc phong bì đựng hai trăm năm mươi nghìn đô la tiền mặt, gợi ý khả năng gã sẽ tới lấy công. Cô liên lạc qua bộ đàm yêu cầu Sellitto giải tán tất cả các xe cảnh sát đang có mặt tại con phố và bố trí các nhóm bí mật phục kích.
Rhyme đang đến bằng chiếc xe thùng của anh và Sachs gọi điện bảo anh vào theo lối cửa hậu. Rồi cô ra hành lang xem tình hình cô gái nhỏ thế nào.
“Cháu cảm thấy sao?”
“Cháu nghĩ là ổn. Mặt bị đau.”
“Cô chắc chắn họ đã bóc băng dính ra rất nhanh.”
“Vâng, rất nhanh ạ.”
“Cảm ơn hành động của cháu. Cháu đã cứu tính mạng nhiều người. Cháu đã cứu tính mạng cô.” Cô bé đăm đăm nhìn Sachs bằng ánh mắt lạ lùng, rồi lại nhìn xuống. Nữ thám tử đưa cho cô bé cuốn Harry Potter cô tìm thấy trong phòng ngủ, và Sachs hỏi liệu cô bé có biết gì về gã đàn ông tự xưng danh là Gerald Duncan không.
“Hắn đáng sợ. Nói chung là kẻ kì quái. Hắn nhìn cô như thể cô chỉ là một hòn đá hay chiếc xe ô tô hay cái bàn. Chứ chẳng phải một con người.”
“Cháu có biết hắn ở đâu không?”
Cô bé lắc đầu. “Tất cả những gì cháu biết là nghe thấy mẹ bảo hắn đang thuê ngôi nhả nào đó ở Brooklyn. Cháu không biết chỗ chính xác. Hắn không nói. Nhưng hắn sẽ tới lấy tiền.”
Sachs kéo Pulaski ra, yêu cầu anh kiểm tra tất cả các cuộc gọi đếnvà điện thoại di động của Charlotte và Bud, cũng như các cuộc gọi bằng máy cố định trong phòng.
“Máy ở sảnh thì sao? Tôi muốn nói cái máy phải trả tiền ấy. Và những máy ngoài phố xung quanh đây.”
Sachs nhướn một bên mày. “Ý kiến hay đấy.”
Chàng cảnh sát trẻ hăm hở đi thực hiện nhiệm vụ. Sachs lấy cho cô gái nhỏ lon soda. Cô bé bật nắp lon và uống hết rất nhanh một nửa. Cô bé nhìn Sachs vẻ lạ lùng. Rồi cô bé cười thành tiếng.
Sachs hỏi: “Gì thế?”
“Cô thực sự không nhớ ra cháu, phải không? Cháu đã gặp cô rồi.”
“Gần con hẻm hôm thứ Ba. Nhớ chứ.”
“Không, không. Nói chung là trưóc đó một thời gian dài.”
Sachs nheo mắt. Cô nhớ rằng cô đã cảm thấy nét gì đó quen quen khi cô trông thấy cô bé trên chiếc xe tại hiện trường thứ nhất trong con hẻm. Và bây giờ cô càng cảm thấy rõ ràng hơn. Nhưng cô không thể xác định được cô từng gặp cô bé ở đâu trước hôm thứ Ba. “Cô e là cô không nhớ ra.”
“Cô đã cứu sống cháu. Hồi ấy cháu vẫn còn nhỏ.”
“Lâu rồi à...” Amelia Sachs nheo mắt, quay sang người mẹ và quan sát Charlotte kĩ lưỡng hơn. “Ôi, trời ơi”, cô há hốc miệng.