Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên - Chương 2 - Phần 3

1. Thiên hạ đệ nhị tuyền

Cơn gió thuở chớm thu đã se sắt hơi lạnh, thỉnh thoảng lá rụng lác đác bay lả tả, người đi chầm chậm thả bước trên đường, nhưng không hề cảm thấy tiêu điều.

Một tia nắng đã khiến tâm tình dễ chịu hơn, thử đi tìm một nơi có nước chảy, đi tìm tiên sinh mù kéo nhị hồ A Bỉnh[44] năm xưa.

[44] A Bỉnh tiên sinh: tên thật là Hoa Ngạn Quân, nhạc sĩ dân gian, đồng thời là đạo sĩ. Vì mắc bệnh nên mắt bị mù, ông khổ công nghiên cứu âm nhạc Đạo giáo, không ngừng nâng cao, và hấp thu rộng rãi các làn điệu âm nhạc dân gian, cả đời tổng cộng sáng tác và diễn tấu hơn hai trăm bảy mươi khúc nhạc dân gian. Hiện còn bảo tồn được sáu bài, gồm: “Nhị Tuyền ánh nguyệt”, “Thính tùng”, “Xuân hàn phong khúc” (nhị hồ) và “Đại Lãng đào sa”, “Long thuyền”, “Chiêu Quân xuất tái” (tì bà).

Nhị Tuyền, dường như mọi thứ ở nơi đây đều liên quan đến suối mát trong lành.

Con đường nhỏ lát đá xanh, cho dù đã in dấu chân của biết bao người đi, vẫn cổ kính rêu xanh. Sàn đá nơi này dường như vĩnh viễn mang dấu ấn ẩm ướt, những quá khứ không thể xóa nhòa đó vẫn trong trẻo như xưa giữa dòng năm tháng già nua.

Hành lang dài quanh co tọa lạc giữa đầm, một cơn gió nhè nhẹ thổi qua. Dựa lan can ngắm hoa sen, những cánh hoa tàn tạ, đài sen căng đầy nuôi những hạt sen non, khiến người ta cảm nhận được một niềm vui sướng của sự thu hoạch. Nhà thơ thời Đường Lý Thương Ấn có thơ rằng: “Lưu đắc tàn hà thính vũ thanh” (Giữ được sen tàn nghe tiếng mưa). Cỏ cây chốn nhân gian, khô héo là chuyện thường. Ngàn vạn sự vật nơi thế gian đều là phong cảnh, chỉ là tâm trạng khi ngắm cảnh khác nhau mà thôi.

Hai cánh cửa lớn màu vàng sẫm mở ra chào du khách, dường như vô tình nhắc nhở người ta, nơi đây đã từng phồn hoa và đầy thi vị. Khẽ chạm vào khóa đồng trên khoen cửa, mong sao có thể trùng với dấu tay của một văn nhân hoặc một trí giả thời cổ nào đó. Có lẽ như thế mới có thể xuyên qua thời gian không gian mưa gió, cùng người ấy có một mối tâm ý tương thông thoảng qua.

Bước vào bậu cửa, lọt vào tầm mắt là năm chữ lớn: Thiên Hạ Đệ Nhị Tuyền. Trắng đen đan xen hút mắt, những điêu khắc im lìm trên vách đá, cho thấy danh hiệu đẹp hết sức đặc sắc của chúng. Mái hiên trên tường đá dây leo phủ kín, một vài cành cây xanh mướt tự do vươn dài ra những hướng khác nhau, cho đến nơi mà chúng muốn dừng lại - chốn về của đời người.

Trường đình cách đó không xa vang lên khúc cổ cầm dìu dặt réo rắt, ở đó có một cụ già diễn tấu bản “Nhị Tuyền ánh nguyệt” cho người khác nghe. Một thân áo dài màu xanh, đôi tay đầy nếp nhăn, khung cảnh mơ hồ, luôn khiến người ta ngộ nhận rằng ông chính là tiên sinh A Bỉnh năm nào. Mà những ngày trăng sáng sao thưa của năm xưa đó, khi A Bỉnh đến nơi non xanh suối biếc diễn tấu nhị hồ, liệu có diễn ra một cuộc tương phùng rượu trắng một bầu hay không?

Tháng năm như nước, vẫn luôn tham luyến cuộc vui. Những câu chuyện được cất giấu nơi sâu thẳm của thời gian, hoặc phồn hoa, hoặc lạnh lẽo, đến nay đều không còn tồn tại. Mà người đời sau đi xuyên qua những hành lang thông tới qua khứ, rốt cuộc có thể tìm được những gì?

Khi chúng ta cúi xuống nhìn Nhị Tuyền danh chấn thiên hạ đó, trong lòng khó tránh nảy sinh cảm giác hụt hẫng khôn xiết. Hàng lan can sắt ngăn du khách ở bên ngoài giếng cổ, năm đó mạch suối có hai nguồn chảy sống động biết bao, đến nay đã thành dòng nước chết. Không còn nhìn thấy nước trong văn vắt chảy róc rách sủi bọt trắng, còn đâu thảm rêu xanh rì ẩm ướt ven bờ. Chiếc giếng cổ có thành giếng bằng xi măng bị hàng rào bao quanh, trở thành một phong cảnh cho du khách thưởng lãm.

Năm ấy, đặc sứ từ kinh thành tới, đường dài rong ruổi chỉ vì muốn lấy nước Nhị Tuyền, đem dâng cho đế vương đun trà nấu nước. Nhưng nước suối đã khô cạn, niên đại tinh tế phong nhã ấy đã dần dần lùi xa. Một chén trà thơm, vài quyển thi thư, ngày tháng mộng sâu thăm thẳm bên ô cửa sổ nhỏ không biết đã đi về đâu, mà lịch sử thì chưa từng kể lại.

Đi men theo con đường lát đá có mấy phường trà cổ kính, trang nhã mở gần hành lang, dăm du khách ngồi xuống nghỉ chân thưởng trà. Cho dù nước không phải là nước của Nhị Tuyền, trà cũng không pha ra được mùi vị năm xưa, chỉ là thân ở chốn cổ tích non ngàn, đã tự nhiên có một tâm tình nhàn tản khác biệt rồi.

Gió lười biếng thổi, mây trôi tự tại. Ngồi trên ghế trúc, uống một bình nhàn trà, từ khi vị đặc đến khi vị nhạt, từ ấm sang nguội. Trà của Nhị Tuyền thích hợp cho những người hoài cổ thưởng thức; trăng của Nhị Tuyền thích hợp cho những người ưa nằm mộng ngắm trông.

Thiều quang đến đi lặng lẽ, cũng như rất nhiều duyên phận không thể nói thành lời, khởi diệt bất định. Rời Thiên hạ đệ nhị tuyền, những người đó lại vội vã bước đi và sẽ đến một cuộc hẹn chưa từng gặp gỡ khác.

2. Huệ Sơn cổ sát[45]

[45] Cổ sát: chữ Phạn, “sát sắc” là chùa Phật, “cổ sát” là cảnh chùa xưa.

Chùa miếu còn chưa thấy, đã nghe thấy tiếng chuông vang vẳng thinh không, dường như đang chiêu gọi những linh hồn tìm kiếm thắng cảnh chốn thâm u. Giang Nam có rất nhiều chùa cổ, chùa Huệ Sơn chỉ là một trong hàng vạn số đó. Gặp gỡ nơi này, chính là túc duyên mà Phật nói tới.

Men theo bậc thang đi lên trên, đi qua mấy tầng cửa cổ, xuyên qua cổ thụ um tùm. Ngước mắt nhìn bốn chữ khiến người ta chăm chú dán mắt: Bất Nhị Pháp Môn[46]. Đây có phải là tượng trưng cho một loại chấp trước hay không? Có lẽ người bước vào cửa Phật, tin nghe nhân quả, là thực sự không còn nảy sinh trần niệm. Có người nói, đây là một loại lánh đời, cũng có người nói, đây là tu hành. Tóm lại, tại bồ đề đạo tràng này, nghe chuông trống Phạn âm là có thể trải qua cuộc sống thanh tịnh vô cầu một bát thiền trà, một chiếc mõ như thế.

[46] Bất Nhị Pháp Môn: Còn gọi là Pháp Không Hai, là một pháp môn trong đạo Phật, dành cho các hành giả ở cõi Ta Bà đi khỏi lạc đường. Cốt yếu của pháp môn này là để chứng minh rằng: “Những sự vật, sự việc ở cõi Ta Bà này là có thật”, cốt để đưa chúng sinh thoát khỏi chấp trước, trở về với chân như, Phật tính.

Trong đại điện, các tăng nhân đang làm pháp sự, họ đọc tiếng Phạn, khiến khách dâng hương thoát li phàm trần, bước vào thiền cảnh xa xăm. Rất nhiều người không thể thực sự thấu hiểu Thiền ý, không hiểu bồ đề nở hoa, nhưng lại cam tâm tình nguyện giam mình trong một quyển kinh thư, tự tại đến đi trong biển Phật mênh mông. Còn đức Phật vẫn dùng đôi mắt từ bi hiền hòa như cũ cúi nhìn chúng sinh mờ mịt, độ cho hết thảy những người có thể độ trên thế gian.

Đi qua Bất Nhị Pháp Môn lại là một thắng cảnh khác. Trên thềm đá là một tòa điện đường cổ kính tọa lạc, tên gọi là Đại Bi. Mà đằng sau của Đại Bi các chính là Huệ Sơn ẩn hiện. Ngước mắt dõi trông, trên tường đá còn khắc bốn chữ lớn “Tây Trúc Lưu Ngân” (Tây Trúc lưu dấu). Nó đã dẫn chúng sinh đến Thủy Thiên Phật quốc xa xôi chỉ trong một sát na ngắn ngủi. Đứng sững dưới trời xanh mây trắng, ngắm nhìn vách núi miếu đài, ta thấy sinh mệnh nhỏ nhoi mà mênh mang biết mấy.

Sáng sủa sạch sẽ, tự viện dường như vĩnh viễn không vương bụi trần, đến mái ngói xanh cũng sạch lau sáng bóng. Mái hiên cong cong, cô độc ngạo nghễ dõi nhìn phương xa, không phải chờ đợi ai, cũng không phải tiễn biệt ai. Từng cánh cửa sổ cũ kĩ hoặc đóng hoặc mở, trên đó chạm trổ những hoa văn muôn hình vạn trạng, tinh xảo đẹp mắt, mà cũng không kém phần trang nhã thanh tịnh. Những người đến nơi này đều không kiềm lòng mà mơ một giấc mộng về Giang Nam.

Buổi hoàng hôn mưa gõ nhịp trên lá chuối, các tăng giả đẩy cửa nghe mưa với tâm trạng gì? Trong đêm trăng sáng như sương, họ đứng trước cửa sổ ngắm trúc với tâm thái gì? Những cảnh tượng phong nhã trữ tình ấy luôn luôn tồn tại và kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thời gian vô tình, sẽ tước bỏ rất nhiều kí ức tươi đẹp; thời gian cũng hữu tình, sẽ lưu lại rất nhiều quá vãng sáng trong.

Phật nói, quay đầu là bờ, không biết có phải tất cả trường hợp quay đầu đều có thuyền bè đợi chờ, chuyên chở chúng sinh sang bờ bên kia sen nở hay không? Lần tìm theo con đường cũ, lại qua một tầng cửa đá nữa. Một cây ngân hạnh cổ thụ có niên đại hơn sáu trăm năm tọa lạc trước miếu, kể cho khách đến chuyện cũ tang thương của nó. Nghe nói năm xưa, được một tiểu sa di trong chùa trồng, tên của người ấy đã bị xóa nhòa theo năm tháng thời gian, không ai hay biết. Mà cây ngân hạnh này lại trường tồn ngàn năm, lá vàng rụng xuống lá xanh mọc chồi, không màng đến ngày hôm qua.

Trên thế gian thực sự có cuộc sống vĩnh hằng không? Thế nhân biến chuyển, sớm đã thay đổi hoàn toàn, nhưng núi đá cỏ cây dường như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Thế sự vô thường, không biết tòa cổ sát nghìn năm này có thể gánh được sương gió của bao nhiêu năm? Phật nói, tùy duyên tự tại, cho dù có một ngày trùng phùng hay không, đều không quan trọng.

Một tấm ngự bi[47] cao chót vót, trên đó khắc câu thơ năm xưa Càn Long ngâm vịnh khi du ngoạn chùa Huệ Sơn. Vị hoàng đế nhàn nhã đa tình này đã từng nhiều lần xuống Giang Nam, quyến luyến vùng bảo địa non nước linh thiêng này, không nỡ rời xa. Bỗng nhiên, tựa như nhìn thấy bóng dáng của vị đế vương ung dung tài hoa tôn quý này. Tài tử áo gầm xòe quạt, phong lưu phóng khoáng ấy là Càn Long sao? Ngài ra khỏi cung điện dát vàng khảm ngọc, tới Giang Nam, đây có phải giấc mộng mà ngài lạc mất hay không?

[47] Ngự bi: Bia đá do hoàng đế ban tặng.

Chúng sinh bình đẳng trước Phật, cho dù là đế vương khanh tướng hay là bình dân phố chợ, li hoan bi hợp đều như nhau. Có một ngày, nguyện cho chúng sinh đều có thể hóa thân thành hoa sen, ngồi dưới núi Tu Di[48], nghe thiền đọc kinh, bình hòa yên ổn.

[48] Tu Di là tên của một ngọn núi trong truyền thuyết cổ Ấn Độ, còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La. Theo quan niệm Phật giáo, núi Tu Di là vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật giáo.

3. Ký Sướng viên

Lại là một tầng cửa, đời người phải chăng có một tầng cửa như thế này, bước vào trong là không thể đi ra? Có cách nghĩ như thế thì vẫn chưa thể buông bỏ chấp niệm. Thế sự non sông chìm nổi bất định, đợi đến khi sinh mệnh kết thúc, tất cả đều hạ màn, quay về với tự nhiên.

Ký Sướng viên vốn là gia viên của họ Tần, chủ khu vườn này chắc chắn phải có một gia tài đồ sộ, mới có thể gửi gắm tình cảm một cách khoáng đạt sảng khoái vào non nước nơi đây. Phong cách của khu vườn cảnh này thuộc thời đại Minh, Thanh, tuy đã trải qua mưa gió mấy trăm năm nhưng vẫn bảo tồn được nguyên vẹn hiện trạng. Thủy tạ ca đài, lầu khắc thuyền hoa, vẫn là cảnh trí Giang Nam thuở nào.

Hành lang quanh co, gió mát thông thoáng, chầm chậm dạo bước, không có mục đích. Hai bên hành lang trồng đầy trúc xanh, ánh nắng xuyên qua ngói xanh, chiếu những vệt nắng loang lổ trên con đường đá, không ai có thể giẫm lên chiếc bóng của chính mình.

Mấy gian thư viện nho nhỏ, trên tường treo vài bức cổ họa tả ý. Cảnh trí trong tranh đều là sông nước Giang Nam, những dãy nhà dân trùng trùng điệp điệp, xây bên dòng nước, dựng bao quanh núi. Vài cây cầu nhỏ như ẩn như hiện, trải dài về phía vùng đất không rõ tên. Mấy chiếc thuyền chèo xuôi dòng, không biết sẽ đi về hướng nào và sẽ cập bến nơi đâu?

Cổ tháp tọa lạc trên đỉnh Tích Sơn, im lặng cúi nhìn dòng kênh chảy suốt nghìn năm đó và khung cảnh phồn hoa của thành cổ Vô Tích. Nhìn thỏi mực quý của tiền nhân để lại, dạo chơi giữa ranh giới xưa và nay, những dấu ấn của nền văn minh xa xưa đó nay đã thương tích chất chồng, dường như tất cả trước mắt đều là sự bình tĩnh đã được ngụy trang. Nhưng chúng ta không có cách nào xé bỏ cảnh tượng này, để cho sự phi thường của năm tháng được phơi bày ra trước mặt.

Tiếp tục đi về phía trước theo tiếng nước chảy, bạn sẽ thấy những bức tường đá chất tầng tầng lớp lớp thành muôn hình vạn trạng. Những bức tường đá này không biết là do tự nhiên tạo thành, hay là do con người cố ý tu chỉnh? Tuy cái đẹp của sinh mệnh bắt nguồn từ tự nhiên, nhưng nếu không trải qua sự nhào nặn của năm tháng, tự nhiên cũng sẽ biến thành đơn điệu và vô vị. Duy chỉ có dùng cái tâm thuần túy để thưởng thức, mới có thể phát hiện được chân ý của cái đẹp.

Chọn một chiếc ghế đá sạch mát để ngồi, ngắm đàn cá lượn lờ đùa trong nước. Chúng luôn được hưởng thụ những đồ ăn ngon của du khách cho, không cần lo lắng bị bắt bởi lưới của người đời. Chỉ là có lẽ chúng sẽ thấy chán chường vùng tịnh thổ nhỏ bé này, thà vẫy vùng trong sông hồ biển lớn, sống cuộc sống bình thường nhất từ xưa tới nay còn hơn. Cá đã như thế, huống chi là người, vạn vật trên thế gian đều phải tuân theo quy luật của tự nhiên mới có thể lâu dài vĩnh viễn.

Đường nhỏ vòng vèo, trên tường đá khắc rất nhiều bức thư pháp của danh gia thời cổ, những thể chữ khác nhau ngụ chứa tâm tính khác nhau của họ. Những vết khắc sâu có nông có đó không che giấu nổi cuộc đời chìm nổi và cả vận mệnh phóng khoáng của họ. Mỗi một hàng văn tự dường như đều có thể cho thấy hình bóng thu nhỏ của cuộc đời những con người ấy. Có lẽ người xưa cũng chưa từng nghĩ rằng, sau vài năm, ở nơi này sẽ lại có một lần tụ hội.

Cổ thụ um tùm, nơi sâu nhất của khu vườn cảnh lại càng thanh vắng. Đi qua hành lang, đi qua cầu đá, trên mặt đầm có mấy chiếc lá đỏ rụng, trôi dập dềnh trên mặt nước. Lá đỏ dường như luôn có mối liên quan đến mùa thu, giữa cái se se lạnh của mùa thu luôn mang theo chút buồn man mác. Mà những người dạo chơi trong khu vườn không biết là sẽ làm kinh động giấc mộng của ai.

Lòng vòng quanh hang núi suối khe, khi đi ra, lại về con đường lúc mới đến. Đời người tựa như một vòng luân hồi, bốn mùa luân chuyển, triều đại đổi thay, cho dù phong vân biến ảo như thế nào, đến một ngày nào đó, đều quay trở về phẳng lặng. Ký Sướng viên cũng như vậy, trải qua phồn thịnh và suy thoái, kế đó lại được những người của các triều đại khác nhau tu sửa và phá hỏng, làm sao còn có thể như lúc ban đầu? Khi chúng ta nhìn thấy những kiến trúc cổ được tân trang đó, rất nhiều thợ thuyền đương nhiệt tình ra sức tu sửa trang trí. Vài năm sau, gạch xanh ngói đen dần dần thay đổi, lại không nhìn ra nổi những vật cũ của năm nào. Những người đến tìm mộng năm đó, còn có thể tìm được những gì?

Đường đến là đường về, có lẽ Ký Sướng viên vẫn còn rất nhiều phong cảnh, đợi chúng ta đến khám phá và còn có rất nhiều câu chuyện, chờ được chúng ta phát giác. Nhưng đời người khó tránh khỏi lầm lỡ, chúng ta không cần phải cố ý kiếm tìm.

Đều là khách qua đường, nên chẳng thể là người trở về của chốn này, cũng không cần quyến luyến với cây cỏ nơi đây. Cho dù tương lai có thể trùng phùng hay không, chỉ cần lưu giữ lại kí ức về non nước lầu gác, ung dung qua ngày, thưởng thức niềm vui của đời người là tốt rồi.

Đi ra khỏi khu vườn Giang Nam, trong con ngõ nhỏ lát đá xanh kéo dài tít tắp là những ngôi nhà vùng sông nước. Ở cửa ra vào bày những chiếc ghế tre cao thấp khác nhau, các cụ già túm tụm uống trà trò chuyện. Không biết trên chiếc sào phơi áo vắt trên cửa sổ gỗ kia treo chiếc váy hoa của nhà ai, đang phất phơ bay bay trong làn gió nhẹ. Không hay những người khách qua đường lưng đeo tay nải ấy, bến tiếp theo sẽ đi về đâu?

Tháng năm như nước, sẽ có một ngày chúng ta đặt hành trang của thế tục xuống, trở về thị trấn nhỏ có ngói đen tường trắng này. Khi ấy, uống một chén trà nhàn nhã từ sớm hôm tới hoàng hôn, cùng bầy én bay về hồi tưởng lại đoạn quá khứ mây nước đó.

Thành cổ Đại Lý

Mỗi con người đều có một tòa thành thuộc về chính mình, cho dù tòa thành đó rộng rãi hay nhỏ hẹp, phồn hoa hay lạnh lẽo. Chỉ cần trong thành có một người, một kí ức, một phong cảnh mà mình nhung nhớ, thì đều nguyện một đời ở lại nơi đó. Đại Lý, từng là một tòa hoàng thành, và cũng là một tòa Phật quốc, đã từng có phong hoa tuyết nguyệt, lại ẩn chứa Vân Thủy Thiền Tâm. Biết bao người bước vào tòa thành này liền không kìm được yêu mến nó. Có lẽ nó không phải tòa thành định mệnh của bạn, nhưng chắc chắn rằng, tất cả mọi người đến đây đều không thể quên được nó. Đến Đại Lý là vì mối duyên tình không dứt từ kiếp trước.

1. Thương Sơn Nhĩ Hải

Đây là một thành thị nổi danh nhờ phong hoa tuyết nguyệt, chỉ cần bước vào Đại Lý, giơ tay ra là có thể sờ được vào sự lãng mạn, cúi mày là có thể chạm tới sự dịu dàng. Nói đến Đại Lý, rất nhiều người đều nhớ đến “Thiên Long Bát Bộ[49]”, nhớ đến Lục Mạch thần kiếm, nhớ đến hoa trà của Đại Lý, nhớ đến Đoàn Dự văn nhã đa tình. Một tiểu quốc phía Nam, cho dù là giang hồ mưa máu gió tanh cũng chưa từng càn quét nơi này. Dường như nó luôn là một vương giả vô tâm, không thích phân tranh chiến loạn. Cho nên từ rất nhiều năm về trước, nó đã trút bỏ sự uy nghiêm của đế vương, đóng cổ thành thành một cuốn sách năm tháng êm dịu, để muôn vàn bách tính cùng điềm tĩnh ngồi đọc.

[49] Thiên Long Bát Bộ: Tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung.

Thương Sơn Nhĩ Hải (núi Thương biển Nhĩ), là phong cảnh tự nhiên của Đại Lý, chỉ riêng chúng đã đủ sức để mang lại sự lãng mạn tuyệt đẹp cho thành phố này. Tuyết Thương Sơn ngàn năm không tan, trăng Nhĩ Hải vạn cổ trường tổn, còn có suối Hồ Điệp trong vắt mát rượi, chúng đồng hành với thời gian của Đại Lý, nuôi dưỡng tinh thần của cổ thành, khi rất nhiều thành thị trong lịch sử dần dần đánh mất dung mạo thuở xưa, Đại Lý vẫn giữ được khuôn trang thanh tân như thuở ban đầu. Những chúng sinh mê đắm trong phồn hoa đó, trong những tháng ngày hối hả, đến cả vui buồn cũng đều vội vã. Khi họ bước chân vào Đại Lý, liền cảm thấy yêu sự đơn giản và yên bình, tĩnh lặng nơi này. Mới biết rằng, hóa ra cuộc sống cũng có thể chậm lại như thế, dạo bước sân vắng chính là trạng thái nhân sinh hoàn mĩ.

Tuyết Thương Sơn óng ánh nhuần nhã; mây Thương Sơn biến ảo đa dạng; suối Thương Sơn ngọt ngào tinh khiết. Chi cần vô tình tới thăm, không cần một lời hẹn ước, mỗi du khách đều có thể tan vào Thương Sơn. Để bản thân ngọc khiết băng thanh như tuyết, yểu điệu rung động như mây, tâm sáng kiến tính như suối. Nước Nhĩ Hải phẳng lặng xanh biếc; gió Nhĩ Hải ôn tồn êm ái; trăng Nhĩ Hải trong vắt sáng soi. Nước nơi này cũng từng sóng lớn ập bờ, nhưng càng lâu về sau, lại càng phẳng lặng không gợn. Gió nơi này có thể trị thương, ngồi trên thuyền, những nỗi buồn thương của mặt hồ xanh thẳm của quá khứ, dần dần được xoa dịu trong gió. Trăng nơi này trong sáng đến mức có thể cầm sách ngồi đọc, nhóm lò nấu trà. Lúc yên ả, cũng có thể thưởng thức hương trà, gối đầu lên ánh trăng mà ngủ thiếp đi.

Ở Đại Lý, Thương Sơn Nhĩ Hải, có thể nấu thế vị nồng đậm thành một bát trà nhạt. Người đến Đại Lý, từ ngày đầu tiên sẽ yêu ngay bát trà này. Trà này, giống như cuộc sống ở Đại Lý, thanh đạm, yên ả, êm đềm.

2. Ba tháp chùa Sùng Thánh

Đại Lý, nhờ có chùa Sùng Thánh, nên mới có danh hiệu Diệu Hương Phật Quốc. Mà ba ngọn tháp ở chùa Sùng Thánh sừng sững tọa lạc trong thành cổ với một khí thế vững vàng phi thường, lưng dựa Thương Sơn, mặt đối Nhĩ Hải, chứng kiến văn hóa Phật giáo của Đại Lý, phong tình nghìn năm của Vân Nam.

Đây thực sự là một tòa Phật đô, năm đó phong trào sùng Phật hưng khởi, chùa Phật lớn nhỏ có đến hơn ba ngàn ngôi, phân bố khắp trong nội cảnh Vân Nam. Phật gia chú trọng duyên pháp, tin vào nhân quả, trong thành Đại Lý trên từ đế vương khanh tướng, dưới xuống bình dân bách tính, đều kết túc duyên sâu đậm với Phật. Trong hai mươi hai đời quốc vương Đoàn thị của nước Đại Lý, có chín vị hoàng đế từ bỏ hoàng vị, đến chùa Sùng Thánh xuất gia. Chúng ta cơ hồ có thể tưởng tượng được, Đại Lý khi đó gần như bị khói hương bao trùm, khắp nơi là Thiền vị từ bi thấm đẫm.

Tâm có bồ đề mới có thể giác ngộ nhân sinh. Tu Phật, tức tại tu tâm, không phải là tránh đời, không phải né trần, mà là vì siêu thoát cho bản thân, độ hóa cho muôn vàn chúng sinh. Ngước trông ba tháp, dưới bầu trời xanh, trong làn nước biếc, khiến lòng người chợt nảy sinh một cảm giác thanh tĩnh xa xôi và đầy sức sống. Dường như Đại Thiên thế giới, vạn vật ảo diệu, đều dung nạp trong đó. Trên thế gian này, không một độ cao nào có thể vượt qua nó; không một loại tâm tình nào có thể đuổi kịp nó.

Tháp chính của ba tòa tháp có một cái tên rất nặng tình, gọi là Thiên Tầm (nghĩa là: nghìn lần tìm kiếm). Không biết năm đó ai đã đặt một cái tên sinh động đến vậy cho bảo tháp, có thể là một vị cao tăng, có thể là một vị đế vương, hoặc có thể chỉ là một kiến trúc sư bình thường. Thiên Tầm, Thiên Tầm, không ai biết nội dung sâu sắc kí gửi đằng sau hai chữ Thiên Tầm là gì, có lẽ phải là một câu chuyện đầy xúc động. Chỉ là, qua mây nước nghìn năm, tên ngọn tháp này vẫn làm cảm động vô số người.

Ba tòa tháp của chùa Sùng Thánh có tạo hình tương tự với Đại Nhạn tháp, Tiểu Nhạn tháp ở Tây An, là kiến trúc mang phong cách đời Đường, dát vàng đỉnh tháp, thể hiện sự tôn quý và hoa lệ một cách rõ ràng. Ba ngọn tháp mạnh mẽ, vươn thẳng vào trời xanh, khí thế hùng hồn. Trên tầng mây, dường như đang có nghìn Phật tĩnh tọa đài sen, lặng ngắm phàm trần suy thịnh. Những người ngồi nhìn hai bờ của thời gian đó, năm năm tháng tháng, đã không biết đổi thay bao lần. Mà ba tòa bảo tháp trải qua ngàn năm mưa gió, vẫn nguy nga sừng sững. Không tìm kiếm nữa, không đợi chờ nữa, chỉ vì ở Phật quốc này, tu một đoạn duyên phận, độ một người qua đường, đổi lấy một khoảng mát lành.